Trong nghiên cứu của Hà Thị Bích Ngọc (2019) về tính kháng thuốc của vi khuẩn Gram âm thường gặp phân lập tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp, Pseudomonas aeruginosa có tỷ lệ kháng trên 50% với các kháng sinh thử nghiệm và hầu như không thay đổi trong suốt nghiên cứu. Đã có nhiều báo cáo trên thế giới cho thấy mức độ đa kháng kháng sinh và gây ra hậu quả nặng nề do Pseudomonas aeruginosa. Những nhiễm khuẩn nặng gây ra do Pseudomonas aeruginosathường có tỷ lệ tử vong khá cao không chỉ do cơ chế sinh bệnh phức tạp mà còn do khó chọn được kháng sinh thích hợp ngay từ ban đầu vì khả năng đề kháng hầu hết các loại kháng sinh kể cả các kháng sinh mới có hoạt tính và phổ tác dụng rộng. Thực trạng nhiễm khuẩn do Pseudomonas aeruginosa đa kháng kháng sinh đã trở thành vấn đề toàn cầu và thực sự là gánh nặng cho lâm sàng và tài chính. Vì vậy việc thường xuyên giám sát về mức độ nhạy cảm với kháng sinh của vi khuẩn giúp cho bác sĩ lâm sàng điều trị nhiễm trùng tốt hơn, tiết kiệm chi phí và đồng thời có biện pháp kiểm soát và ngăn chặn sự lây lan của chúng. Nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu: (1) Mô tả một số đặc điểm gây bệnh các chủng Pseudomonas aeruginosa tại Bệnh viện C Đà Nẵng. (2) Tình hình kháng kháng sinh của các chủng Pseudomonas aeruginosa phân lập được tại Bệnh viện C Đà Nẵng. Đối tượng nghiên cứu các chủng Pseudomonas aeruginosa phân lập được tại khoa Vi sinh, Bệnh viện C Đà Nẵng. phương pháp Xác định mức độ đề kháng kháng sinh của vi khuẩn bằng phương pháp Kirby-Bauer. Phân loại mức độ đa kháng theo Magiorakos. Kết quả Tỷ lệ P.aeruginosa gây nhiễm trùng ở nam: 62,8%, ở nữ: 32,7%. Nhiễm khuẩn P.aeruginosa chủ yếu ở bệnh nhân trên 60 tuổi (83,7%). Các chủng P.aeruginosa phân lập được nhiều nhất tại khoa Hồi sức tích cực chống độc (41,9%), Nội hô hấp (18,6%), Nội lão (13,9%), Ngoại tổng hợp (9,3%), Ngoại chấn thương-thần kinh (9,3%) và Nội thận (7%). Hình thái nhiễm trùng l âm sàng do P.aeruginosa thường gặp nhất là nhiễm trùng hô hấp (60,5%), nhiễm trùng tiết niệu (16,3%), nhiễm trùng vết thương (9,3%), nhiễm trùng vết mổ (2,3%), nhiễm trùng vết loét (9,3%) và nhiễm trùng máu (2,3%). P.aeruginosa phân lập được từ đàm (51,2%), mủ (20,9%), nước tiểu (16,3%), dịch phế quản (9,3%) và máu (2,3%). P.aeruginosa đề kháng thấp với Colistin, Piperacillin/Tazobactam, Amikacin lần lượt là 16,3%; 11,6%; 32,6%, đề kháng dao động từ 40-60% với các kháng sinh: Torbramycin và Gentamycin (44,2%), Cefepime (46,5%), Ciprofloxacin (53,5%), Meropenem (44,2%), Imipenem (41,9%), Levofloxacin (55,8%), Ofloxacin (58,1%). Có 23,3% P.aeruginosa MDR, 30,2% XDR và không có PDR.
P.aeruginosa gây nhiễm trùng chủ yếu ở người lớn tuổi và nhiều nhất ở đường hô hấp. Bệnh phẩm phân lập được P.aeruginosa nhiều nhất là đàm, tiếp theo là mủ, nước tiểu. Vi khuẩn đề kháng tương đối từ 40-60% với các kháng sinh Ciprofloxacin, Meropenem, Imipenem, Levofloxacin, Ofloxacin. Có 23,3% chủng P.aeruginosa đa kháng, 30,2% kháng mở rộng và không có chủng toàn kháng. |