Nhóm nghiên cứu đã sử dụng bộ dữ liệu gồm 462 bệnh nhân AGS được xác nhận mắc AGS từ UNC Health và các mô hình dựa trên các yếu tố môi trường, chẳng hạn như lớp phủ đất và địa hình, để đánh giá liệu nguy cơ mắc AGS có liên quan đến tình trạng chia cắt môi trường sống thường thấy ở các không gian mở và khu vực phát triển mật độ thấp ở Bắc Carolina, Nam Carolina và Virginia hay không.
Phát hiện của họ đã được công bố trên tạp chí PLOS Climate.
Các triệu chứng xảy ra sau khi ăn thịt
Ở Hoa Kỳ, AGS thường liên quan nhất đến ve sao đơn độc (Amblyomma americanum) nhưng cũng có thể lây truyền qua ve chân đen (Ixodes scapularis, còn gọi là ve hươu). Tỷ lệ mắc bệnh đặc biệt cao ở khu vực giữa Đại Tây Dương. Số ca nghi ngờ tăng từ 24 ca năm 2009 lên hơn 34.000 ca năm 2019.
Được đặt tên theo phân tử galactose-α-1,3-galactose có trong hầu hết các loài động vật có vú, AGS thường gây ra các triệu chứng từ 2 đến 6 giờ sau khi ăn thịt hoặc các sản phẩm động vật khác.
Các triệu chứng có thể từ nhẹ đến đe dọa tính mạng và có thể bao gồm phát ban hoặc phát ban, buồn nôn/nôn, đau bụng, ợ nóng, tiêu chảy, huyết áp thấp , sưng tấy, chóng mặt/ngất xỉu và ho hoặc khó thở. Hầu hết những người mắc AGS cần kiêng ăn các loại thịt như thịt bò, thịt lợn, thịt cừu, thịt nai và thịt thỏ.
Sự xâm lấn của con người, biến đổi khí hậu
Các mô hình xác định sự phát triển không gian mở và mật độ dân số thấp là các yếu tố rủi ro đối với AGS. Hai mô hình dự đoán một gradient rủi ro mạnh từ đông sang tây trên khắp khu vực giữa Đại Tây Dương, phần lớn phản ánh sự chuyển đổi môi trường từ núi sang đồng bằng ven biển, trong khi mô hình thứ ba dự đoán sự phân bố không đồng đều hơn nhiều.
Các nhà nghiên cứu cho biết sự phân bố các trường hợp alpha-gal trên khắp Hoa Kỳ không hoàn toàn phù hợp với sự phân bố đã biết của ve sao đơn độc, cho thấy các yếu tố gây nhiễu tiềm ẩn về môi trường và/hoặc sai lệch xác định. Nhưng việc ước tính tỷ lệ mắc bệnh và phân bố trường hợp theo địa lý trở nên phức tạp do báo cáo hạn chế (AGS thường không được báo cáo ở cấp liên bang) và nhận thức thấp của nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe về tình trạng này. |