Ung thư vú (UTV) là bệnh lý ác tính phổ biến nhất ở phụ nữ, trong đó các tế bào vú tăng sinh bất thường không kiểm soát và hình thành khối u. Theo Globocan 2020, tỉ lệ mắc UTV đứng đầu trong số các loại ung thư với số ca mới mắc trên thế giới 2.261.419 người. Tại Việt Nam, UTV đứng đầu trong số các loại ung thư ở nữ giới với số ca mới mắc là 21.555 người và chiếm 11,8% trên tổng số ca ung thư ở cả hai giới. Mặc dù tỉ lệ ca mắc mới tăng trong những năm gần đây nhưng số ca tử vong do UTV có xu hướng giảm nhờ những tiến bộ trong kĩ thuật chẩn đoán phát hiện bệnh, dự phòng và điều trị. Thuốc điều trị ung thư đã được chứng minh là có tác dụng cải thiện kết quả điều trị mặc dù những loại thuốc này có liên quan đến độc tính do đặc tính tiêu diệt không chọn lọc cả tế bào ung thư và tế bào lành.
Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 63 người bệnh thông qua các hồ sơ bệnh án (HSBA) điều trị ung thư bằng thuốc của người bệnh nội trú tại Bệnh viện Nhân dân Gia Định từ tháng 01/2022 đến tháng 12/2023 thỏa mãn tiêu chuẩn lựa chọn và tiêu chuẩn loại trừ.
Kết quả cho thấy: Độ tuổi trung bình 54,1 ± 10,6, trong đó có 62 nữ và 1 nam với tỉ lệ lần lượt là 98,4% và 1,6%. Bệnh lý mắc kèm chiếm tỉ lệ cao bao gồm trào ngược dạ dày thực quản GERD (100%), rối loạn điện giải (98,4%) và tăng huyết áp (17,5%). Phác đồ được kê đơn trong các đợt điều trị chiếm tỉ lệ cao bao gồm 30,2% TCH (docetaxel/ carboplatin/ trastuzumab), 22% AC - 12P (doxorubicin/ cyclophosphamide/ paclitaxel), 20,9% AC - T (doxorubicin/ cyclophosphamide/ paclitaxel). Các nhóm thuốc chống ung thư được sử dùng nhiều nhất bao gồm thuốc có nguồn gốc từ thực vật (59,4%), kháng thể đơn dòng (42,0%) và tác nhân alkyl hóa (16,6%). Thuốc hỗ trợ trong điều trị ung thư được sử dụng nhiều nhất lần lượt là dung dịch điều chỉnh nước điện giải và cân bằng acid - base (85,6%), thuốc chống nôn (79,8%), thuốc kháng acid và thuốc chống loét khác tác dụng lên đường tiêu hóa (78,5%).
Nhìn chung, các phác đồ điều trị ung thư vú và thuốc hỗ trợ sử dụng trên bệnh nhân nội trú khá đa dạng. Trong đó, phác đồ TCH (docetaxel/carboplatin/trastuzumab) được dùng phổ biến nhất, đi kèm với các thuốc hỗ trợ như dung dịch điều chỉnh nước – điện giải và thuốc chống nôn. |