Từ hàng trăm năm trước, ở Việt Nam bồ hòn đã được sử dụng để gội đầu, giặt quần áo,.. Saponin có trong bồ hòn là một hợp chất có tính tạo bọt và có khả năng làm sạch như các sản phẩm tẩy rửa thông thường. Tuy nhiên, do có màu nâu sẫm tự nhiên, quả bồ hòn ít được ưa dùng. Việc tẩy màu dịch chiết giúp tăng giá trị cảm quan, phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng.
Các nghiên cứu về điều kiện chiết xuất saponin từ quả bồ hòn đã được thực hiện từ nhiều năm trước đây. Kết quả nghiên cứu của Kose và Bayraktar cho thấy độ phân cực của dung môi ảnh hưởng đến hiệu suất của quá trình chiết, với hiệu suất cao nhất thu được là 78,1% ở tỷ lệ rắn/lỏng 110 (g/mL). Mondal cùng cộng sự cũng nghiên cứu một số hệ dung môi để chiết xuất saponin từ quả bồ hòn ở tỷ lệ rắn/lỏng 110 (g/ml).
Các nghiên cứu hóa thực vật của chi bồ hòn đã xác định được hơn 103 hợp chất, bao gồm flavonoid, triterpenoids, glycoside, carbohydrate, acid béo, phenol và saponin. Trong số các hợp chất này, saponin triterpenoid của oleanane, dammarane và tirucullanne được coi là nhóm hợp chất có hoạt tính sinh học.
Wang và cộng sự đã tối ưu hóa quá trình tẩy màu dịch chiết bồ hòn sử dụng hydrogen peroxide. Trong đó, nồng độ hydrogen peroxide, thời gian, nhiệt độ và pH được coi là những yếu tố quan trọng nhất. Tỷ lệ khử màu và hàm lượng saponin tổng hợp được sử dụng làm chỉ số để đánh giá các thông số ảnh hưởng. Kết quả cho thấy thể làm lượng saponin giảm đến mức chấp nhận được (≤ 20%) nên sử dụng nhiệt độ và nồng độ cao. Thời gian ít ảnh hưởng đến quá trình khử màu. Điều kiện tối ưu thu được là hydrogen peroxide 2,5%, nhiệt độ 80 0C, thời gian 80 phút và pH = 6. Ở điều kiện này, tỷ lệ khử màu đạt 89,5% và hàm lượng saponin tổn thất là 17,8%.
Ngoài ra, than hoạt tính cũng được sử dụng để tẩy màu dịch chiết acid hydroxycitric (HCA), thu nhận bằng cách nấu nhừ nguyên liệu vỏ quả bứa khô với nước.
Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu về khử màu dịch chiết trên thế giới, nhưng tại Việt Nam khử màu dịch chiết từ quả bồ hòn vẫn còn khá mới mẻ. Vì vậy, mục tiêu của nghiên cứu là tạo ra dịch chiết bồ hòn không màu, hàm lượng saponin hao hụt không đáng kể. Nghiên cứu này góp phần tận dụng nguồn nguyên liệu bồ hòn dồi dào tại Việt Nam, nâng cao sức cạnh tranh cho các sản phẩm tẩy rửa từ bồ hòn và mang lại hiệu quả kinh tế cho người nông dân.
Nguyên liệu sử dụng cho nghiên cứu là quả bồ hòn khô đã tách hạt được mua ở thị trấn K’ba, huyện K’bang, tỉnh Gia Lai. Các hóa chất H2SO4 (95 : 98 %), HCl (36 : 38 %), NaOH (96 %), vanilin (98%), H2O2 (30 %), cồn tuyệt đối (99,7 %) và acid oleanolic (97 %) có xuất xứ từ Trung Quốc.
Quả bồ hòn (đã tách hạt và sấy khô) được đem đi giã nhỏ rồi trộn với hệ dung môi ethanol – nước theo tỷ lệ 110 (g/mL). Hỗn hợp được khuấy trộn với tốc độ 200 vòng/phút liên tục trong 6 giờ ở nhiệt độ phòng. Sau trích ly, hỗn hợp được lọc thô qua rây, rồi lọc tinh qua giấy lọc, 50 mL dịch chiết được trộn với 50 mL dung dịch H2O2 rồi tiến hành tẩy màu với các thông số thay đổi như nồng độ H2O2, nhiệt độ, thời gian và pH. Nhiệt độ được duy trì trong bể điều nhiệt và pH được điều chỉnh bằng dung dịch NaOH và HCl 1M. Sau quá trình tẩy màu, cô quay chân không dịch chiết đến khối lượng không đổi (cô cạn) để loại bỏ hoàn toàn lượng H2O2 dư. Chất rắn thu được được hòa tan trở lại trog 50 mL hỗn hợp dung môi ban đầu để đảm bảo độ khô tương đương, rồi tiến hành xác định tỷ lệ tẩy màu và hàm lượng saponin hao hụt.
Kết quả nghiên cứu cho thấy nồng độ H2O2, nhiệt độ, thời gian và pH được xem là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng lên quá trình khử màu. Tỷ lệ tẩy màu 91,73 % và cao nhất đạt 91,73 % và hàm lượng saponin thu hụt 6,47 % ở điều kiện nồng độ hydrogen peroxide 6 %, nhiệt độ 80 oC, thời gian 80 phút và pH = 8. |