Công nghệ số như là một thuật ngữ chung và rất phổ biến hiện nay. Nó gồm nhiều nhân tố khác nhau và ứng dụng rộng rãi trên nhiều lĩnh vực của đời sống. Nhưng với vùng dân tộc thiểu số, công nghệ số thể hiện rõ tác động của mình vào cuộc sống người dân là những nhân tố như điện thoại, internet và mạng xã hội. Trong số này, internet là nhân tố quan trọng nhất, còn điện thoại là một công cụ sử dụng internet, mạng xã hội là các ứng dụng để kết nối các nhân tố xã hội dựa trên nền tảng internet hay còn gọi là mạng xã hội ảo. Đây là những nhân tố hình thành dựa trên nền tảng công nghệ số và phát triển cùng với sự phát triển của công nghệ số ở vùng dân tộc thiểu số. Thường thì, internet xuất hiện theo một chu trình phổ biến là sự xuất hiện của điện lưới thắp sáng, sau đó các ứng dụng khác được mở rộng mà quan trọng là các trạm phát sóng điện thoại. Rồi xuất hiện các điện thoại thông minh kết nối mạng bằng 3G, 4G, và sự xuất hiện của các bộ phát sóng wifi. Công cụ sử dụng mạng internet phổ biến nhất là điện thoại. Cũng như các vùng khác, ban đầu chỉ có sóng điện thoại và người dân chủ yếu dùng điện thoại để nghe gọi bình thường bởi chưa có kết nối internet và chưa có những ứng dụng mạng xã hội. Khi phát triển hơn, điện thoại thông minh xuất hiện và phổ biến ở vùng dân tộc thiểu số thì kết nối internet cũng rộng rãi hơn và các mạng xã hội dần phát triển hơn. Hiện nay, điện thoại thông minh, internet và mạng xã hội đang không ngừng phổ biến và trở thành nhân tố quan trọng tác động mạnh mẽ đến cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số. Những phương tiện thông tin liên lạc này không chỉ giúp đồng bào thuận lợi hơn trong liên lạc giữa các thành viên với nhau mà còn giúp họ tiếp cận cuộc sống hiện đại một cách nhanh chóng hơn, tham gia vào thế giới rộng lớn hơn. Nó trở thành động lực quan trọng thúc đẩy sự biến đổi xã hội vùng dân tộc thiểu số.
Công nghệ số cũng được ứng dụng nhiều trong chính quyền địa phương để giải quyết các công việc. Trong các làng bản, người dân vẫn thành lập các nhóm theo nghề nghiệp, theo giới tính, theo độ tuổi… để trao đổi trên các mạng xã hội như facebook, zalo... Hội phụ nữ cũng có một nhóm riêng với nhiều thành viên, khi cần trao đổi một vấn đề gì thì họ đưa lên và được các thành viên khác tiếp nhận. Ngược lại, khi một thành viên có vấn đề gì cần hỏi thì họ cũng vào nhóm và sẽ được đáp ứng. Các nhóm nghề nghiệp là phổ biến nhất, như nhóm thêu may thổ cẩm, nhóm buôn bán dược liệu, nhóm du lịch cộng đồng… Họ lập các nhóm kín hoặc diễn đàn mở để trao đổi. Qua các nhóm này thì các thông tin được nắm bắt một cách rõ ràng hơn. Trước đây, trong không gian truyền thống, người dân tộc thiểu số chủ yếu tạo lập quan hệ xã hội với những người trong làng bản, rộng hơn là các làng bản xung quanh có quan hệ chặt chẽ với họ. Thế giới của họ gắn với kết cấu xã hội truyền thống là làng bản và liên làng bản ở mức độ hẹp. Nhưng khi công nghệ số phát triển, với điện thoại, internet và mạng xã hội, thế giới của họ không ngừng được mở rộng. Họ tạo lập nhiều mối quan hệ với bên ngoài thông qua các mạng xã hội để trao đổi thông tin và tham gia vào thế giới rộng lớn hơn. Từ khi công nghệ số và mạng xã hội phát triển phổ biến, người dân ngày càng chủ động hơn trong việc tiếp cận thông tin đa chiều và biết cách sàng lọc thông tin. Trước những vấn đề chưa rõ ràng, người dân đã biết vào internet để tìm hiểu. Trước hết họ tìm thông tin, rồi sau đó đi hỏi thêm cán bộ về các chính sách hay thông tin liên quan để thấu đáo hơn. Ở các địa phương, việc lập các nhóm nhỏ qua mạng xã hội để trao đổi, chia sẻ cũng dần phổ biến. Cán bộ địa phương cũng có nhóm riêng, hội phụ nữ, hội cựu chiến binh, đoàn thành niên, các tổ chức chính trị, các câu lạc bộ, các nhóm nghề nghiệp… đều thành lập nhóm riêng. Khi cần họ chỉ cần nhắn tin là có thể cùng nhau chia sẻ. Mỗi khi có vấn đề gì chưa rõ họ đều hỏi trong nhóm rồi sau đó mới trao đổi với nhau, nhất là các vấn đề liên quan đến chế độ chính sách. Đây là một thể hiện cho sự chủ động nắm bắt thông tin đa chiều hơn của người dân vùng dân tộc thiểu số.
Trong quá trình chuyển đổi số để đưa công nghệ số thành nguồn lực để phát triển vùng dân tộc thiểu số, cần gắn với đào tạo nguồn nhân lực và hoàn thiện hành lang pháp lý liên quan. Công nghệ số là phương tiện, nên người sử dụng nó là nhân tố then chốt. Để hạn chế các tác động tiêu cực thì cần phải nâng cao năng lực của người dân. Giúp họ đa dạng hóa sinh kế dựa vào các nhân tố công nghệ là điều cần thiết. Cùng với đó, hỗ trợ và khuyến khích việc vận dụng công nghệ số làm động lực để phát triển các mô hình sinh kế từ văn hóa truyền thống. Như vậy sẽ giúp người dân vừa phát triển kinh tế, vừa bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng dựa vào công nghệ số. |