Ảnh minh họa.
Suy tim mạn tính là một hội chứng lâm sàng phức tạp thường được đặc trưng bởi những đợt cấp mất bù. Suy tim là nguyên nhân tử vong hàng đầu trong những nguyên nhân tử vong do tim mạch. Trong suy tim tình trạng xung huyết phổi do áp lực của thất trái và nhĩ trái cao đang là nguyên nhân phổ biến khiến các bệnh nhân suy tim phải nhập viện. Nó được chứng minh là thường sảy ra trước các biểu hiện lâm sàng khởi phát của suy tim và trước khi bệnh nhân nhập viện. Như vậy, cần phải có một kỹ thuật với độ nhạy cao và chính xác để có thể phát hiện phù phổi trước khi nó thực sự trở nên rõ ràng trên lâm sàng. Trong khoảng 15 năm nay một lĩnh vực trong chuyên ngành chẩn đoán hình ảnh đã nổi lên trong thực hành lâm sàng đó là siêu âm phổi. Ứng dụng chủ yếu của siêu âm phổi cho các chuyên gia tim mạch là đánh giá dấu hiệu “đuôi sao chổi” hay còn gọi là B-line, sự xuất hiện của nhiều B-line đại diện cho tình trạng ứ huyết tại phổi và B-line giúp phân biệt khó thở cấp do tim hay do phổi. Chỉ số ULCs là tổng số B-line ở các vị trí khảo sát đã được chứng minh là có tương quan với một vài thông số đánh giá suy tim trên lâm sàng và cận lâm sàng như: NYHA, NT-proBNP và EF, và có giá trị trong chẩn đoán và tiên lượng suy tim. Tại Việt Nam vẫn chưa có nghiên cứu nào về vấn đề này.
Các bệnh nhân vào viện vì các triệu chứng của suy tim, được chẩn đoán suy tim theo tiêu chuẩn ESC 2016, được theo dõi và điều trị tại Viện Tim mạch Việt Nam. Thời gian nghiên cứu từ tháng 10/2016 đến tháng 08/2017. Tiêu chuẩn loại trừ bệnh nhân, loại trừ các bệnh nhân có tổn thương phổi nguyên nhân không phải do tim: Viêm phổi thùy, tắc mạch phổi, K phế quản, tràn dịch màng phổi không do tim, tâm phế mạn…, bệnh nhân có tình trạng ứ khí tại phổi: COPD, hen phế quản, tràn khí màng phổi… Bệnh nhân suy gan, suy thận giai đoạn cuối, các bệnh nhân < 18 tuổi. Thiết kế nghiên cứu bằng cách theo dõi khi nhập viện và trước ra viện trên một nhóm bệnh nhân. Các bước tiến hành nghiên cứu bằng cách cho bệnh nhân khám lâm sàng, làm các xét nghiệm cận lâm sàng, siêu âm phổi cùng lúc với siêu âm tim trong vòng 4h sau khi nhập viện và trước khi ra viện. Bệnh nhân được thu thập đầy đủ biến số và chỉ số n/c theo mẫu bệnh án nghiên cứu. Có 53 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu nhưng 11 bệnh nhân tử vong trước khi được ra viện nên được tách làm một nhóm riêng để đánh giá tiên lượng tử vong. Siêu âm tim phổi được tiến hành hai lần tại thời điểm trong vòng 4 giờ sau khi nhập viện và trước khi ra viện. Địa điểm tiến hành là phòng siêu âm tim, Viện Tim mạch Việt Nam, Bệnh viện Bạch Mai, Hà Nội. Sử dụng máy siêu âm tim với đầu dò phased array tần số 2,5 – 3,5 MHz. Quy trình tiến hành siêu âm phổi. Kỹ thuật thực hiện: Thời gian thực hiện có thể trong vòng 5-10 phút. Bệnh nhân có thể nằm hoặc ngồi. Đặt đầu dò theo các khoang liên sườn để khám. Khảo sát các vùng ngực cả 2 bên. Cắt dọc để lấy được dấu con dơi (“bat” sign) sau đó mới xác định các dấu khác. Mỗi vùng được thăm dò từ đỉnh đến đáy, theo các đường cạnh ức, đường giữa đòn, đường nách trước, đường nách giữa mỗi bên. Bên phải quét từ KLS 2 đến 5, bên trái từ KLS 2 đến 4. Điều này cho phép kiểm tra 28 cửa sổ khác nhau, 16 bên phải và 12 bên trái - Tiêu chuẩn chẩn đoán đường B-line khi thỏa đủ 4 đặc điểm sau. Bắt đầu từ đường màng phổi đến gờ màn hình. Di chuyển đồng bộ với dấu phổi trượt. Những đường tăng âm, dài, không bị mờ đi theo trục dọc (giống tia laser). Xóa đi những đường cơ bản của nhu mô phổi (A-line) theo trục ngang. Nhận định kết quả: Từ 28 cửa sổ B-line được đếm từ 0 - 10 ở mỗi vị trí khám. Tính là 0 (B-line) khi không có B-line trong vùng khám, và khi ở một vị trí khám với đầu dò tim trắng toàn màn hình được xem như tương ứng với 10 (B-line). Picano và cộng sự chia mức độ ứ huyết phổi theo chỉ số ULCs như sau: ULCs < 5: không ứ huyết phổi, 5≤ULCs≤15: ứ huyết phổi mức độ nhẹ, 16 ≤ ULCs ≤ 29: ứ huyết phổi mức độ vừa, ULCs ≥ 30: ứ huyết phổi mức độ nhiều. Phân tích thống kê các số liệu thu được xử lý trên máy tính bằng các thuật toán sử dụng chương trình phần mềm SPSS 16.0.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, ở nhóm bệnh nhân được ra viện sau điều trị, ULCs giảm rõ rệt cùng với các thông số đánh giá suy tim. Chỉ số ULCs có tương quan tuyến tính với mức độ suy tim theo NYHA, nồng độ NT-proBNP và EF ≤ 40%, gợi ý UlCs cũng có thể là một trong những thông số đánh giá tình trạng suy tim. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê của chỉ số ULCs ở nhóm tử vong so với nhóm được ra viện gợi ý đây có thể là một yếu tố tiên lượng tử vong trên bệnh nhân suy tim mạn tính có đợt cấp mất bù. Nghiên cứu khuyến nghị tiếp tục nghiên cứu lớn hơn về ứng dụng của chỉ số ULCs trong thực hành lâm sàng. Trong thực hành lâm sàng, nghiên cứu đề xuất ứng dụng đánh giá ULCs ở các cửa sổ bên (đường nách trước và giữa) tốt hơn so với các cửa sổ trước ngực (đường cạnh ức và giữa đòn). |