Nếu sáng chế đáp ứng tiêu chuẩn bảo hộ thì sẽ được cấp Bằng độc quyền sáng chế có hiệu lực 20 năm. Còn nếu SC không nộp đơn đăng ký hoặc nộp đơn đăng ký nhưng không được cấp bằng độc quyền thì bất cứ ai cũng có quyền sử dụng mà không bọ coi là xâm phạm quyền SHTT đối với SC. Tuy nhiên, không phải bất cứ một sáng chế nào khi nộp đơn đăng ký, chủ đơn cũng đòi hỏi được cấp bằng độc quyền.
Vậy, câu hỏi đặt ra là, khi nào thì lấy bằng độc quyền sáng chế và không lấy bằng độc quyền thì có sao không?
Cũng như thông lệ quốc tế, việc cấp bằng độc quyền SC tại Việt Nam dựa trên nguyên tắc tính mới. Có nghĩa là SC đó phải còn mới so với thế giới. Tức là, trước ngày nộp đơn SC đó chưa bị bộc lộ công khai ở bất cứ đâu trên thế giới. Hơn nữa, trong trình tự, thủ tục cấp bằng độc quyền SC có thủ tục công bố đơn. Khi đơn đã công bố thì đồng nghĩa với việc SC đó đã bộc lộ công khai cho toàn thế giới biết (không còn tính mới).
Điều này được hiểu là, nếu chủ đơn có nhu cầu cấp bằng độc quyền thì làm các thủ tục tiếp theo, còn nếu không lấy bằng độc quyền thì đơn đã công bố đó là căn cứ pháp lý để từ chối cấp bằng cho bất cứ ai trên thế giới theo nguyên tắc tính mới. Cũng có nghĩa là, nếu đơn SC đã công bố thì hoặc là chủ đơn được cấp bằng độc quyền (nếu muốn lấy) hoặc là không có bất cứ ai được cấp bằng độc quyền. Và khi không có ai được cấp bằng độc quyền cho SC đó thì khi sử dụng SC đó chủ đơn không phải lo lắng đến việc tranh chấp, kiện cáo về quyền SHTT.
Phải khẳng định là chỉ lấy bằng độc quyền SC nếu biết được SC đó có khả năng thương mại hóa được (kiếm lời được), còn những sáng chế không có hoặc chưa có khả năng thương mại hóa được, mà chỉ là bước đệm về khoa học, chỉ để lấy ngày ưu tiên của đơn trên cơ sở đó tiếp tục hoàn thiện một công nghệ (có thể nộp nhiều đơn SC cho cùng một công nghệ nhưng chỉ lấy bằng độc quyền cho công nghệ cuối cùng đã hoàn chỉnh dựa trên nguyên tắc tính mới), thì không nên lấy bằng độc quyền.
Để biết được SC có khả năng thương mại hóa được hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố như thị trường công nghệ, nhu cầu sử dụng của các doanh nghiệp, những yếu tố pháp lý bắt buộc khi đưa sáng chế vào áp dụng (cấp phép sử dụng SC liên quan đến môi trường, đến an toàn vệ sinh thực phẩm, đến chăm sóc sức khỏe cho nhân dân ..), nhưng điều quan trọng hơn cả là do chính chủ SC đó mới biết rõ hơn ai hết.
Hơn nữa, khi lấy bằng độc quyền SC cũng phải cân nhắc kỹ giữa lợi ích của bằng độc quyền đó mang lại với chi phí bỏ ra để duy trì hiệu lực hàng năm của bằng độc quyền đó trong suốt 20 năm. Theo quy định của luật, ngoài lệ phí thủ tục để được cấp bằng, chủ bằng SC phải nộp lệ phí duy trì hiệu lực bằng độc quyền SC hàng năm; nếu năm nào không nộp hoặc nộp không đúng kỳ hạn thì bằng độc quyền SC sẽ bị đình chỉ hiệu lực. Khi ấy, bằng SC sẽ hết giá trị và rõ ràng việc lấy bằng SC trở lên vô nghĩa.
Ở Việt Nam, lệ phí duy trì hiệu lực tuy không lớn (khoảng 300.000đ-500.000 đ/năm và càng về gần năm thứ 20 thì nhiều hơn một ít), nhưng ở nước ngoài thì lệ phí đó không hề nhỏ, ví như ở Mỹ thì khoảng 7000 USD/20 năm, thì quả là con số đáng phải cân nhắc. Kinh nghiệm của một số chủ đơn SC là người nước ngoài nộp đơn đăng ký SC ở Việt Nam, thì tỉ lệ lấy bằng SC là khá thấp so với số đơn SC họ nộp vào.
Ngược lại, người Việt Nam thì hầu như khi nộp đơn SC đều đòi hỏi lấy bằng được bằng độc quyền SC, chỉ khi không thể lấy được (không được cấp) thì mới phải chịu, bất chấp xem bằng độc quyền SC đó có thương mại hóa được không. |