Thương hiệu đã được lịch sử đã ghi danh
Từ lâu, quế Trà My không chỉ là một hàng hoá mà nó đã đi vào tâm thức của nhân dân như một biểu tượng, một giá trị kinh tế và văn hoá xứ Quảng, không ai khi nhớ về mảnh đất Trà My mà không nghĩ và nhắc đến cây quế. Thời Nguyễn, “Cao sơn ngọc quế” Trà My được xem là sản vật quý dùng để tiến vua hàng năm và trong các lễ mừng thọ ở Cung đình Huế. Hình ảnh cây quế đã được Vua Minh Mạng cho khắc trên Nghị Đỉnh trong bộ Cửu Đỉnh ở Cung đình Huế.
Điều này đã minh chứng rất rõ cho danh tiếng lâu đời và sự gần gũi với đời sống xã hội của Quế Trà My. Trong thời Mỹ Diệm, bà Trần Lệ Xuân từng chủ trương mở con đường từ thị trấn Trà Xuân, huyện lỵ Trà Bồng qua các xã Trà Thuỷ, Trà Thanh (tỉnh Quảng Ngãi) để mở đường vào khai thác quế Trà My, nhưng việc làm đường bất thành trước sự tấn công của bộ đội và du kích. Điều này càng khẳng định thêm, quế Trà My là mặt hàng có khả năng tiêu thụ mạnh, mang lại giá trị cao và nằm trong chiến lược khai thác tài nguyên của chính quyền Mỹ Diệm.
Với sự phát triển hoạt động giao thương của cảng thị Hội An trong suốt thời kỳ nhà nước Champa và Đại Việt, hoạt động buôn bán, giao thương với các nước ngoài đã vô cùng sầm uất. Nhiều mặt hàng chủ yếu được trao đổi như như mật ong, hương liệu, tơ lụa… thì một trong những mặt hàng quan trọng và thu hút được sự quan tâm của thương nhân đó là quế.
Theo nhà dân tộc học người Pháp, Giáo sư Georges Condominas (Ông vừa được Nhà nước Việt Nam trao tặng Huy chương Hữu nghị vì những đóng góp rất đáng trân trọng trong giao lưu, hữu nghị Việt-Pháp cũng như giới thiệu văn hóa Việt Nam với thế giới) cũng cho rằng hoạt động mua bán quế Trà My với các nước trên thế giới đã diễn ra từ những thế kỷ trước khi có sự giao lưu buôn bán, thông thương của thương nhân nước ngoài đến từ Tây Ban Nha, Ả Rập. Người Trung Quốc đã sớm nhận ra giá trị của quế Trà My, các thương gia Trung Quốc đã tổ chức thu mua, mang về nước chế biến và bán cho các nước để làm dược liệu có giá trị cao, dĩ nhiên là với giá trị kinh tế cũng tăng lên gấp nhiều lần.
Nét đặc thù của cao sơn ngọc quế
Cây quế Trà My có nguồn gốc là quế mọc hoang trong rừng, từ rất lâu đã được đồng bào người Ca Dong, Mơ Nông... mang về trồng trong vườn nhà, mỗi gia đình lúc đầu chỉ có một vài cây, sau đó đã phát triển thành các vườn quế, đồi quế và rừng quế. Sản phẩm quế Trà My với những đặc tính vượt trội như có vị cay và nồng hơn so với các loại quế ở nơi khác, vỏ quế Trà My có màu sắc tự nhiên và bên ngoài đậm hơn, chứa rất nhiều tinh dầu, giống như một lớp dầu dày cộm chứa đầy trong vỏ. Theo điều tra và đánh giá của Viện Thổ nhưỡng Nông hoá, hàm lượng tinh dầu trong vỏ quế thân Trà My dao động từ 8,93 - 10,91 %, chỉ số này cao hơn hẳn các vùng khác (Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Ngãi …).
Lá và thân quế Trà My cũng rất đặc thù. Theo điều tra và đánh giá của Viện Thổ nhưỡng Nông hoá, lá quế Trà My có hình bầu dục nhưng thuôn dài, mặt trên của lá xanh đậm bóng, mặt dưới lá xanh nhạt, đặc điểm dễ nhận thấy là lá quế Trà My không bị cháy xém khi già. Kết quả đo lá quế tại vùng điều tra thấy rằng về hình thái lá cây quế ở đây có chiều dài trung bình từ 17 - 25 cm, chiều rộng từ 8 - 12 cm, tỷ lệ rộng/dài ~ 0,45. Bên cạnh đó quả của cây quế Trà My có đặc thù là đầu quả bằng, trong khi đó các giống quế khác có đầu nhọn. Thân quế Trà My cũng có nét đặc trưng riêng là thân không thẳng, không cao, trên thân có nhiều nốt sần nhỏ, có nhiều mấu mắt, vỏ xù xì, phân cành tự nhiên sớm. Kết quả đo các kích thước của thân cho thấy: Chiều cao thân dưới cành trung bình 3,4 - 4,2 m, chiều cao vút ngọn trung bình 7,0 - 9,5 m, đường kính thân (cao 1,3 m) trung bình 16,0 - 18,5
Một nét khác biệt nữa tạo nên danh tiếng của quế Trà My là kỹ thuật trồng và canh tác truyền thống. Do giống quế Trà My là mọc chậm hơn so với những giống quế khác nên bà con nơi đây đã nghĩ ra cách trồng quế để chu kỳ cây được ngắn lại, những cây quế ngoài 20 tuổi sau khi thu hoạch sẽ tiến hành chặt đến sát mặt đất, sau đó lấp đất lên gốc quế vừa chặt, sau một mùa mưa từ các gốc cây này sẽ mọc lên những cây con và đây là những cây giống được bà con mang đi trồng. Ngoài việc chọn giống truyền thống này, còn có cách chọn giống bằng hạt. Theo đó, đồng bào nơi đây thường lựa chọn những cây có độ tuổi trên 20 năm, có vỏ dày cho hàm lượng tinh dầu cao, có tán rộng, cao và đã ra hoa và quả ổn định từ 3 đến 4 năm được chọn làm cây giống. Hạt quế sẽ được ủ bằng cách đưa xuống đất và đánh thành từng luống, cứ 3 - 5 ngày đảo lại 1 lượt, nếu cát bị khô phải bổ sung thêm nước, kỹ thuật này giúp duy trì sức sống của hạt tránh việc bị mất tinh dầu khi gặp nhiệt độ cao, ẩm độ thấp hoặc ánh sáng trực diện làm mất khả năng nảy mầm.
Thu hoạch và chế biến vỏ quế cũng là một nét rất riêng của người dân Trà My, người dân trong vùng thường áp dụng các phư¬ơng thức khai thác toàn bộ vỏ cây trong một mùa khai thác (khai thác trắng). Vỏ quế bóc xong, đem phơi khô, phân loại và đóng vào các hòm gỗ có bọc túi polylen hoặc giấy hút ẩm.
Trà My là một trong số ít nơi có sản phẩm quế kẹp, quế ông, kỹ, chỉ những loại quế có nhiều tinh dầu, độ dẻo cao mới có thẻ cuốn và kẹp được. Để chế biến được quế kẹp tốt phải tốn nhiều công sức từ việc chọn được cây quế tốt, xác định vị trí và quy cách lấy vỏ, bóc vỏ, xử lý vỏ, tạo dáng đẹp; tẩm phơi khô thường mất từ 15 đến 20 ngày. Để tạo dáng đẹp cho thanh vỏ quế, trước khi cho thanh quế lên bàn kẹp để uốn hình, vỏ quế thường được ủ 3-4 ngày cho vỏ dai, mềm dễ uốn, tinh dầu trong vỏ đã tương đối ổn định.
Có nơi nhân dân vát hai đầu thanh quế lộ ra phần nhục quế hoặc dùng sáp ong để bịt hai đầu quế. Quế được bảo quản trong hộp kẽm hoặc trong các hòm gỗ có bọc nhiều lớp vải mỏng và mềm, làm như vậy có thể bảo quản được quế rất lâu không bị mất dầu và mùi vị.
Từ kỹ thuật lựa chọn cây giống, đến kỹ thuật chăm sóc, thu hoạch và bảo quản chế biến vỏ quế, các kỹ thuật này gắn bó với người dân Trà My như là một kinh nghiệm được truyền từ đời này sang đời khác.
Phát triển bền vững thương hiệu
Sự tồn tại và phát triển của cây quế “Trà My” cũng đã trải qua nhiều bước thăng trầm trong lịch sử. Đặc biệt là trong những năm gần đây, trước sức ép của nhu cầu thị trường và yêu cầu phát triển kinh tế, cùng với những hạn chế về quản lý và định hướng phát triển, cây quế “Trà My” đang đứng trước những thách thức lớn, nhất là đang bị đe dọa “đồng hóa” với những giống “quế Bắc” di nhập một cách mạnh mẽ vào Quảng Nam.
Những năm 80-90 của thế kỹ trước, một số ít người dân miền bắc (Thanh Hoá) vào định cư tại Trà My đã đưa cây quế Bắc vào trồng nhưng với số lượng nhỏ, còn lại vùng Trà My chủ yếu là quế nội hay còn gọi là quế Quảng, một cây quế trước đây được xem như là một tài sản lớn của gia đình. Sau năm 1990, khi giống quế Bắc được một số công ty đưa vào trồng thì giống quế Trà My dần dần bị thu hẹp và giá trị thị trường bị giảm sút do chất lượng thấp của giống quế Bắc đã ảnh hưởng phần nào đến hình ảnh của cây quế nơi đây, việc này đã là làm cho giá trị trên thị trường của sản phẩm quế “Trà My” bị giảm sút nghiêm trọng..
Để bảo vệ thương hiệu cao sơn ngọc quế, chất lượng quế là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của chính quyền tỉnh Quảng Nam. Nhằm duy trì chất lượng đặc hữu của giống quế Trà My, đảm bảo uy tín thương hiệu, một trong những yếu tố quan trọng trong sản xuất là công tác giống, giữ vững nguồn giống quế Trà My trong gây trồng. Ngày 22/6/1993, UBND tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (cũ) đã có ban hành Chỉ thị số 28/CT-UB về việc trồng quế trên địa bàn tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, Sở Lâm nghiệp tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng đã ban hành Quy định số 11/KT ngày 07/01/1995 về việc hướng dẫn thực hiện Chỉ thị số 28/CT-UB ngày 22/6/1993 của UBND tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng về công tác trồng quế, nhằm mục đích bảo tồn và nâng cao chất lượng quế Trà My, đồng thời đề cao trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về lâm nghiệp và của người dân trong công tác này.
Để khẳng định và góp phần nâng cao giá trị thương hiệu cho sản phẩm quế Trà My, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Nam đã tiến hành xây dựng cơ sở khoa học, hoàn thiện Hồ sơ để đề nghị Cục Sở hữu trí tuệ bảo hộ chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm quế Trà My, đồng thời, Sở đã và đang triển khai nhiều các hoạt động hữu ích khác để hỗ trợ bà con vùng trồng quế như thành lập Hiệp hội sản xuất và kinh doanh quế, chuẩn hoá quy trình trồng, khai thác và chế biến quế, xây dựng các văn bản và hướng dẫn bà con sử dụng, quản lý và bảo vệ chỉ dẫn địa lý quế Trà My.
Đặc biệt, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Nam đã tiến hành thiết kế logo, hệ thống nhận diện thương hiệu, thiết kế website để giới thiệu và thiết lập kênh thương mại cho sản phẩm quế. Văn Dũng |