Xây dựng [ Đăng ngày (04/04/2025) ]
Bức tranh thị trường vật liệu xây dựng giai đoạn 2024-2025
Thị trường vật liệu xây dựng (VLXD) đang trên đà phục hồi với mức tăng trưởng sản lượng tích cực trong năm 2024, nhờ lực đẩy từ đầu tư công và chính sách hỗ trợ. Tuy nhiên, biến động giá cả, cạnh tranh gay gắt và yêu cầu phát triển bền vững tiếp tục là những thách thức lớn trong năm 2025.

Trong năm 2024, ngành này cho thấy sự phục hồi tích cực, được thúc đẩy bởi tốc độ đô thị hóa nhanh, đầu tư công quy mô lớn và chính sách hỗ trợ kịp thời từ Chính phủ

Tăng trưởng sản lượng: Dấu hiệu hồi phục rõ rệt


Là mắt xích cuối trong chuỗi Bất động sản - Xây dựng - VLXD, ngành VLXD phản ánh trực tiếp “sức khỏe” của nền kinh tế. Trong năm 2024, ngành này cho thấy sự phục hồi tích cực, được thúc đẩy bởi tốc độ đô thị hóa nhanh, đầu tư công quy mô lớn và chính sách hỗ trợ kịp thời từ Chính phủ.

Theo số liệu từ Vietnam Report, sản lượng các nhóm sản phẩm chủ lực trong năm 2024 đều tăng trưởng rõ rệt: thép thô đạt gần 22 triệu tấn (tăng 14%); xi măng 91 triệu tấn (tăng 2%); gạch ốp lát 450 triệu m2 (tăng 15%) và sứ vệ sinh đạt 14,5 triệu sản phẩm (tăng 15%).

Tuy nhiên, không phải phân khúc nào cũng khởi sắc. Kính xây dựng - một vật liệu phổ biến trong công trình hiện đại là nhóm sản phẩm duy nhất giảm sản lượng, chỉ đạt 147 triệu m2, giảm 16% so với cùng kỳ. Điều này cho thấy sự phục hồi chưa đồng đều giữa các phân khúc trong ngành.

Sự gia tăng sản lượng không chỉ là kết quả của nhu cầu hồi phục trong nước, mà còn nhờ vào các gói đầu tư công quy mô lớn được triển khai mạnh mẽ từ cuối năm 2023 đến nay. Những công trình hạ tầng như cao tốc Bắc - Nam giai đoạn 2, sân bay Long Thành và hàng loạt khu công nghiệp mới đã trở thành lực kéo chính cho toàn ngành.

Tình hình tài chính của các doanh nghiệp cũng phản ánh rõ xu hướng khởi sắc này. Tỷ lệ doanh nghiệp ghi nhận mức tăng trưởng doanh thu trên 25% đã tăng lên 45,9%, trong khi chỉ còn 11,2% doanh nghiệp bị sụt giảm doanh thu nghiêm trọng - cải thiện mạnh so với mức 30,6% của năm 2023.

Biến động giá vẫn là nỗi lo lớn

Dù sản lượng và doanh thu tăng, ngành vẫn đối mặt với một thực tế khó tránh: giá VLXD biến động mạnh. Chỉ số giá nhà ở và VLXD đã tăng 26% so với thời điểm trước đại dịch Covid-19 (tháng 1/2019), tạo áp lực chi phí lớn lên các chủ đầu tư.

Từ tháng 8/2024, giá thép xây dựng tăng liên tục, đạt mức 13,5 - 13,9 triệu đồng/tấn, tùy chủng loại. Trong khi đó, giá xi măng cũng tăng nhẹ do tác động từ việc điều chỉnh giá điện (tăng 4,8%). Cát xây dựng tiếp tục khan hiếm vì hoạt động khai thác bị siết chặt, khiến giá vọt lên 140.000 - 400.000 đồng/m3 tùy khu vực.

Chi phí vật liệu hiện chiếm khoảng 60% tổng chi phí xây dựng một dự án, khiến bài toán hiệu quả đầu tư càng thêm phức tạp. Một số doanh nghiệp đã buộc phải tạm dừng hoặc giãn tiến độ thi công để chờ giá hạ nhiệt, ảnh hưởng trực tiếp đến dòng tiền và kế hoạch phát triển trong trung và dài hạn.


Chi phí vật liệu hiện chiếm khoảng 60% tổng chi phí xây dựng một dự án


Bước sang năm 2025, giá VLXD có xu hướng ổn định hơn, đặc biệt là mặt hàng thép. Tuy nhiên, giá cát vẫn tăng 5-15%, tiếp tục gây áp lực cho các nhà thầu. Sự ổn định này tạo điều kiện cho các dự án xây dựng phục hồi, song ngành cần tìm động lực tăng trưởng mới thông qua kiểm soát giá hiệu quả và tận dụng nhu cầu từ hạ tầng.

Những yếu tố này không chỉ củng cố sự phục hồi mà còn định hướng ngành VLXD hướng tới phát triển bền vững trong bối cảnh kinh tế biến động.

Ngoài giá cả, ngành VLXD còn phải đối mặt với sức ép cạnh tranh gay gắt. Năng lực sản xuất hiện nay vượt xa nhu cầu tiêu thụ trong nước, đặc biệt ở nhóm sản phẩm xi măng, gạch ốp lát và kính xây dựng. Cung vượt cầu tạo ra áp lực thanh lọc thị trường, buộc các doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng, tiết giảm chi phí và tìm hướng đi mới để tồn tại.

Những động lực chính thúc đẩy thị trường VLXD

Sự phục hồi của ngành VLXD trong năm 2025 không đến từ một yếu tố đơn lẻ, mà là tổng hòa của nhiều động lực:

Đầu tư công: Là lực đẩy quan trọng nhất trong bối cảnh bất động sản dân dụng chưa hồi phục rõ rệt. Các dự án hạ tầng lớn như cao tốc Bắc - Nam, sân bay Long Thành và loạt tuyến vành đai tại TP.HCM, Hà Nội tiếp tục tạo ra nhu cầu lớn cho thị trường VLXD như xi măng, sắt thép, cát, đá.

Hơn nữa, sự phát triển hạ tầng không chỉ thúc đẩy nhu cầu xây dựng dân dụng và thương mại mà còn tạo hiệu ứng lan tỏa đến toàn bộ hệ sinh thái ngành xây dựng, từ sản xuất bê tông, nhựa đường đến nội thất và sơn phủ, qua đó hỗ trợ sự phục hồi và tăng trưởng của các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng.

Các chính sách hỗ trợ của Chính phủ: với 61,5% doanh nghiệp coi đây là động lực quan trọng thứ hai. Những năm gần đây, Chính phủ đã triển khai nhiều biện pháp nhằm tháo gỡ rào cản pháp lý và cải thiện môi trường đầu tư, đặc biệt thông qua việc ban hành các luật quan trọng như Luật Đất đai sửa đổi, Luật Nhà ở và Luật Kinh doanh Bất động sản, có hiệu lực từ năm 2024.

Các điều chỉnh này đã giải quyết nhiều vướng mắc trong lĩnh vực đầu tư và bất động sản, đẩy nhanh tiến độ phê duyệt dự án, giải phóng nguồn lực và kích thích dòng vốn đầu tư vào thị trường bất động sản, từ đó tác động trực tiếp đến nhu cầu VLXD.

Ngoài ra, Chính phủ cũng triển khai các chính sách tài chính - tín dụng, như giảm lãi suất vay vốn và hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn ưu đãi, giúp các doanh nghiệp VLXD duy trì hoạt động và mở rộng sản xuất.

Kỳ vọng từ bất động sản: Mặc dù thị trường bất động sản nhà ở vẫn đang điều chỉnh, nhưng dấu hiệu phục hồi nhẹ ở phân khúc nhà ở xã hội và bất động sản công nghiệp đã phần nào cải thiện triển vọng tiêu thụ VLXD.

Xuất khẩu - dư địa rộng lớn: Ngoài các yếu tố tăng trưởng nội địa, thị trường xuất khẩu mở ra dư địa rộng lớn cho ngành VLXD Việt Nam trong giai đoạn 2024-2025, nhờ vị thế ngày càng vững chắc trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Dù công suất ngành VLXD Việt Nam còn nhỏ so với quy mô toàn cầu, tiềm năng xuất khẩu vẫn nổi bật, được củng cố bởi nhu cầu cơ sở hạ tầng tăng mạnh tại châu Âu, Mỹ và châu Á - Thái Bình Dương.

Với nền tảng phục hồi tích cực, ngành VLXD trong năm 2025 được kỳ vọng sẽ duy trì đà phục hồi nếu các điều kiện vĩ mô ổn định và đầu tư công tiếp tục được giải ngân đúng tiến độ. Tuy nhiên, tăng trưởng sẽ không bùng nổ như trước mà có xu hướng đi vào chiều sâu.

Doanh nghiệp nào có khả năng tối ưu hóa chuỗi cung ứng, làm chủ công nghệ sạch và xây dựng thương hiệu gắn với phát triển bền vững sẽ có cơ hội vươn xa, cả trong nước lẫn quốc tế.

Hữu Việt
Theo Tạp chí điện tử Thanh niên việt (tnxmai)
In bài viết  
Bookmark
Ý kiến của bạn

Video

Công nghiệp  
 
Phát triển công nghiệp hỗ trợ, nâng chất sản xuất chế tạo
Trước diễn biến tình hình phức tạp của thế giới, châu Âu, Hoa Kỳ yêu cầu, đòi hỏi hàng hóa nhập khẩu khắt khe hơn, Bình Dương nỗ lực phát triển sản xuất ngành cơ khí chính xác, phát triển chuỗi cung ứng ngành công nghiệp hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp thích ứng, nâng cao giá trị sản phẩm để đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn hàng hóa cao hơn.


 
Nông nghiệp  
 
Tỉnh Hòa Bình: Hướng đến trung tâm ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao
Là tỉnh có diện tích sản xuất cây ăn quả có múi khá lớn, chiếm 5% diện tích cả nước, giá trị thu nhập đạt 300 - 450 triệu đồng/ha/năm, thuộc diện cao nhất toàn quốc. Những năm qua, nhờ chủ trương đẩy mạnh tái cơ cấu ngành nông nghiệp và sự chủ động của các hộ sản xuất, Hòa Bình đã hình thành những vùng hàng hóa lớn, tập trung, có điều kiện thâm canh cao. Đơn cử, như: Vùng sản xuất cam Cao Phong, Kim Bôi, Lạc Thủy; vùng sản xuất bưởi đỏ tại Tân Lạc; vùng sản xuất bưởi Diễn tại Yên Thủy, Lương Sơn...


 
Xây dựng  
   



© Copyright 2020 Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ - Sở Khoa học & Công nghệ TP. Cần Thơ
Địa chỉ: 118/3 Trần Phú - Phường Cái Khế - Quận Ninh Kiều - thành phố Cần Thơ
Giấy phép số: 05/ GP-TTĐT, do Sở Thông tin và Truyền Thông thành phố Cần Thơ cấp ngày 23/5/2017
Trưởng Ban biên tập: Ông Vũ Minh Hải - Giám Đốc Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ - Sở Khoa học & Công nghệ TP. Cần Thơ
Ghi rõ nguồn www.trithuckhoahoc.vn khi bạn sử dụng lại thông tin từ website này
-->