Tầm quan trọng của ngành công nghiệp văn hóa và sáng tạo đối với mỗi quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đều có thể nhận thấy và được nhìn nhận dưới các góc độ khác nhau. Tuy nhiên, phạm vi của nghiên cứu này chủ yếu để phân tích các yếu tố tích cực và tiêu cực tác động đến người trẻ trong lĩnh vực phát triển của ngành công nghiệp văn hóa và sáng tạo. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cũng như mở ra tiềm năng cho việc phát triển các ngành công nghiệp văn hóa và sáng tạo đối với người trẻ.
Công nghiệp văn hóa
Vai trò và sức mạnh của công nghiệp văn hóa trên thế giới
Ngành công nghiệp văn hóa là động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn cầu và khu vực mặc dù nằm trong số những nền kinh tế dễ bị ảnh hưởng bởi những thách thức của môi trường. Các ngành công nghiệp văn hóa và sáng tạo tạo ra doanh thu hàng năm gần 2,3 nghìn tỷ USD, đóng góp 3,1% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) toàn cầu. Trong số các nền kinh tế lớn của G20 có dữ liệu gần đây, tỷ trọng của các ngành công nghiệp văn hóa và sáng tạo trong tổng giá trị gia tăng dao động từ 0,7% ở Mexico đến 3% ở Hoa Kỳ.
Ngoài ra, UNESCO ước tính rằng các ngành công nghiệp văn hóa và sáng tạo chiếm 6,2% việc làm toàn cầu. Trong đó, một số nước như Trung Quốc năm 2022 đạt doanh thu 180 tỷ USD; Nhật Bản, năm 2019, doanh thu chiếm 1,9% GDP của quốc gia và lực lượng lao động chiếm 1,9% (1,3 triệu người); Vương quốc Anh tính đến tháng 6/2023 có 2,5 triệu người tham gia vào nền công nghiệp văn hóa.
Công nghiệp văn hóa tại Việt Nam
Tại Việt Nam, Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa được xác định như một thành tố then chốt trong chiến lược phát triển quốc gia. Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị quyết 31/NQ-CP ngày 13/5/2014 về hội nhập quốc tế trong đó xác định xây dựng và triển khai chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa là một trong những mục tiêu quan trọng. Với tầm nhìn dài hạn đến 2030, việc thực hiện của chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa được bắt đầu từ một nền tảng thực sự vững mạnh.
Trong 10 năm tới, Chính phủ Việt Nam xác định đầu tư phát triển nền công nghiệp văn hóa trong 12 lĩnh vực, bao gồm: Quảng cáo, kiến trúc, phần mềm và các trò chơi giải trí, thủ công mỹ nghệ, thiết kế, điện ảnh, xuất bản, thời trang, nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm truyền hình và phát thanh; du lịch văn hóa. Theo đó, mục tiêu đến năm 2030, các ngành công nghiệp văn hóa sẽ đóng góp tới 7% GDP, trong đó: Ngành điện ảnh đạt khoảng 250 triệu USD (phim Việt Nam đạt khoảng 125 triệu USD); ngành nghệ thuật biểu diễn đạt khoảng 31 triệu USD; ngành mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm đạt khoảng 125 triệu USD; ngành quảng cáo (trên truyền hình, đài phát thanh, báo, tạp chí, Internet và quảng cáo ngoài trời) đạt khoảng 3.200 triệu USD; ngành du lịch văn hóa chiếm 15 - 20% trong tổng số 40 tỷ USD doanh thu từ khách du lịch.

Ảnh minh họa
Vai trò của người trẻ trong sự phát triển của ngành công nghiệp văn hóa và sáng tạo
Hiện nay, với tiến bộ nhanh chóng về kỹ thuật và công nghệ, thế hệ trẻ có vai trò quan trọng trong phát triển, thúc đẩy nền kinh tế thông qua ngành công nghiệp văn hóa và sáng tạo. Sự tham gia của thanh niên vào các hoạt động kinh tế sáng tạo là rất quan trọng để trong tương lai, những người trẻ tuổi có thể cạnh tranh trên phạm vi quốc gia và quốc tế. Đây cũng là cơ hội trao quyền cho thanh niên có thể nêu gương trong cộng đồng, dám tham gia vào nền kinh tế sáng tạo hoặc thế giới kinh doanh theo tài năng của họ trong việc đạt được các giá trị xã hội và văn hóa. Đạt được mục tiêu này, ngoài việc tăng số lượng người trẻ trong lĩnh vực công nghiệp sáng tạo, còn tạo ra sự tác động tích cực trong giải quyết các vấn đề xã hội như năng suất thấp, thất nghiệp, tội phạm và những vấn đề khác.
Tại Việt Nam, thời gian qua, Việt Nam đã chuyển mình từ một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới thành một nền kinh tế có mức thu nhập trung bình, và nằm trong số ít các quốc gia đạt được đa số các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (SDG) của Liên Hợp Quốc trước năm 2015. Với 70% dân số dưới 35 tuổi, Việt Nam được coi là quốc gia có dân số trẻ. Người trẻ đại diện cho nguồn ý tưởng và sáng tạo vô tận, một lực lượng thúc đẩy sự thay đổi cho đất nước.
Trong một nghiên cứu về thế hệ trẻ Việt Nam của Hội đồng Anh, trong tốp 10 ngành mà thế hệ trẻ Việt Nam mong muốn được làm thì ngành công nghiệp văn hóa và sáng tạo (trong đó có nghệ thuật, giải trí) đứng thứ 3, chỉ sau kế toán, giáo dục. Điều đó có thể thấy ngày càng nhiều người trẻ đã, đang và mong muốn được góp mặt trong ngành công nghiệp văn hóa.
Thời gian qua, sức mạnh của người trẻ trong việc phát triển ngành công nghiệp văn hóa và sáng tạo Việt Nam ngày càng được thể hiện: nhiều sản phẩm văn hóa “made in Vietnam” đang phát triển mạnh mẽ trên nhiều nền tảng, nhất là công nghệ số, tạo dựng được niềm tin, sự quan tâm của cộng đồng xã hội. Tiêu biểu như: Các sản phẩm điện ảnh, phim truyền hình, phim ngắn, nhiều bộ phim truyền hình ăn khách, phù hợp với thuần phong, mỹ tục, lối sống của người Việt đã xuất hiện nhiều hơn, chiếm lĩnh “giờ vàng” vốn trước đây thuộc về các tác phẩm điện ảnh nước ngoài và đã nhận được sự hưởng ứng của khán giả. |