Nông nghiệp [ Đăng ngày (23/02/2025) ]
Ứng dụng khoa học – công nghệ vào sản xuất nông nghiệp: Thành tựu, hạn chế và giải pháp tháo gỡ
Trước những tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, quá trình đô thị hóa và biến đổi khí hậu, cùng những yêu cầu khắt khe của thị trường… đang đặt ra những khó khăn, thách thức rất lớn đối với sản xuất nông nghiệp Việt Nam. Việc đẩy nhanh ứng dụng khoa học – công nghệ vào sản xuất nông nghiệp không chỉ là giải pháp tối ưu giải quyết vấn đề trên mà còn là một tất yếu để nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của nông phẩm, bảo đảm cho kinh tế nông nghiệp Việt Nam phát triển bền vững.

 Đặt vấn đề

Ứng dụng khoa học – công nghệ (KCN) vào sản xuất nông nghiệp (SXNN) là xu hướng tất yếu của các nước phát triển và chìa khóa nâng cao hiệu quả sản xuất. Ở Việt Nam, từ sau Đổi mới (1986), kinh tế nông nghiệp đã có bước tiến đáng kể, góp phần ổn định kinh tế – xã hội và thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, nền nông nghiệp nước ta vẫn còn hạn chế: sản xuất nhỏ lẻ, năng suất chưa cao, dễ bị ảnh hưởng bởi thiên tai, dịch bệnh và có tác động tiêu cực đến môi trường. Giải pháp quan trọng là đẩy mạnh ứng dụng KHCN vào SXNN.

Nhận được biểu thức điều điều này, Đảng và Nhà nước đã xác định KHCN là “quốc sách hàng đầu”, không ngừng hoàn thiện chính sách thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao công nghệ trong nông nghiệp. Đại hội XIII (2021) tiếp tục nhấn mạnh vai trò của KHCN và đổi mới sáng tạo nâng cao năng suất, chất lượng, cạnh tranh. Đảng cũng đề ra mục tiêu tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng hiện đại, phát triển nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ và sinh thái, đáp ứng tiêu chuẩn an toàn thực phẩm. Những định hướng này giúp tạo ra môi trường thuận lợi cho nghiên cứu và ứng dụng KHCN vào SXNN, góp phần phát triển nền nông nghiệp vững chắc.

Một số kết quả đạt được trong ứng dụng khoa học – công nghệ vào sản xuất nông nghiệp thời gian qua

Ứng dụng khoa học – công nghệ (KCN) vào sản xuất góp phần quan trọng vào sự phát triển của ngành Nông nghiệp Việt Nam. Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, KHCN và đổi mới sáng tạo đóng góp hơn 30% giá trị gia tăng trong SXNN, đặc biệt trong sản xuất giống cây trồng, vật nuôi đạt 38%. Nhờ KHCN, năng suất, chất lượng và sức tranh của nông sản được nâng cao. Trong giai đoạn 2016 – 2021, tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt 238,81 tỷ USD, trung bình 39,8 tỷ USD/năm, riêng năm 2021 đạt 48,6 tỷ USD.

Việc ứng dụng KHCN được thực hiện toàn diện, đồng bộ ở tất cả các lĩnh vực, các khâu của quá trình SXNN và đạt được một số kết quả cụ thể như sau:

Một là, Ứng dụng khoa học – công nghệ (KHCN) vào nông nghiệp đã mang lại nhiều kết quả tích cực, đặc biệt trong cải tạo đất, phân bón và ao chuồng trại chăn nuôi. Nhiều nghiên cứu đã giúp nâng cao độ cao của đất, sử dụng phân bón hữu cơ, vi sinh và công nghệ nano để cải thiện chất lượng đất và cây trồng. Tiêu biểu như than sinh học từ trấu, vỏ cà phê của Trung tâm Công nghệ sinh học TP. Hồ Chí Minh hay chế độ sản phẩm vi sinh của Viện Thổ nhưỡng Nông hóa.

Cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp giúp giảm chi phí, tăng chất lượng sản phẩm và thu lợi nhuận khoảng 20 – 30%. Các nghiên cứu về vi sinh vật bản địa giúp cải thiện đất nhiễm độc, đất nhiễm mặn, đất phèn cũng được ứng dụng rộng rãi. Ngoài ra, công nghệ hiện đại trong xây dựng ao chuồng và sử dụng chế độ sinh học để xử lý chất thải chăn nuôi không chỉ nâng cao hiệu quả kinh tế mà còn bảo vệ môi trường.

Hai là, Các thành vật khoa học – công nghệ (KCN) đã giúp lựa chọn tạo ra nhiều cây trồng giống nhau, vật nuôi có chất lượng cao, khả năng chống dịch bệnh và thích nghi tốt với điều kiện khắc nghiệt. Từ năm 2013 – 2020, đã có 529 giống mới (393 giống cây trồng, 12 giống thủy sản, 82 giống cây lâm nghiệp, 42 giống vật nuôi), cùng 101 tiến bộ kỹ thuật và 85 bằng sáng chế được ứng dụng vào thực tiễn. Giúp đỡ công nghệ hiện đại và quy trình kỹ thuật tiên tiến, nhiều cây giống nhau, đã được đưa vào sản xuất quy mô lớn, giúp tăng năng suất và chất lượng nông sản Việt Nam.

Công nghệ sinh học hiện đại (sinh học phân tử, di truyền, nuôi cấy mô, chỉ thị phân tử, giải trình tự gen…) được ứng dụng rộng rãi trong các lựa chọn tạo giống mới. Nhờ đó, nhiều giống lúa ưu việt có khả năng kháng sâu bệnh, chịu hạn, chịu mặn, cho năng suất cao đã được phát triển. Các loại cây trồng như ngô, rau, củ, nấm, hoa, cây công nghiệp, cây lâm nghiệp cũng được lựa chọn nhờ KHCN, với gần 65% diện tích chè toàn quốc sử dụng tương tự như Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam nghiên cứu.

Trong chăn nuôi, Việt Nam đã làm chủ công nghệ sản xuất tinh lạnh và kỹ thuật cho gia phóng, đồng thời phát triển nhiều giống gà bản địa. Lĩnh vực thủy sản cũng đạt được nhiều tiến bộ, với 12 tương tự mới và 65 tiến bộ kỹ thuật được chuyển giao vào sản xuất giai đoạn đoạn 2016 – 2020. Nhờ KHCN, tỷ lệ sống của cá tra trong giai đoạn cuốc đạt gần 50%, giúp tăng trưởng nhanh hơn 20%. Sản lượng nuôi trồng thủy sản liên tục tăng, đạt 4,38 triệu tấn (2019), 4,56 triệu tấn (2020) và 4,75 triệu tấn (2021), vượt tiêu đề ra.

Ba là, Việc ứng dụng khoa học – công nghệ (KHCN) trong chăm sóc cây trồng, vật nuôi và nuôi trồng thủy sản đã giúp nâng cao năng suất lao động và giải phóng sức lao động nông dân. Cơ giới hóa phát triển mạnh, với số lượng máy móc trong nông nghiệp tăng đáng kể từ năm 2011 đến 2019, như máy kéo (+48%), máy rắn liên hợp (+79%), máy chế biến thức ăn gia tăng (+90,6%)...

Nhiều kỹ thuật canh tác tiên tiến được áp dụng, như “3 giảm 3 tăng”, “1 phải 5 giảm”, cùng mô hình công nghệ sinh thái, giúp giảm chi phí sản xuất, hạn chế môi trường tác động. Công nghệ 4.0 cũng được đưa vào bảo vệ vật phẩm, như phần mềm quản lý sinh vật gây hại, trạm khí tượng tự động, tia đèn giám sát…

Mô hình nông nghiệp công nghệ cao ngày càng phát triển với 49 doanh nghiệp tiêu biểu như TH Group, Dabaco, Nafoods, Holdings… Các doanh nghiệp này ứng dụng công nghệ tự động hóa trong sản xuất, theo dõi sức khỏe cây trồng, vật nuôi, bảo vệ chuồng trại bằng đệm lót sinh học và hệ thống tự động. Ngoài ra, công nghệ hiện đại cũng hỗ trợ nghiên cứu, sản xuất và tiêm phòng dịch, giúp nâng cao năng suất và giảm chi phí sản xuất.

Bốn là, Áp dụng KHCN trong mục tiêu và bảo vệ nông sản giúp giảm thiểu thất bại và nâng cao giá trị hóa học. Cơ giới hóa hóa trong thu hoạch lúa đạt trên 82% ở Đồng bằng sông Cửu Long, 70% ở Đông Nam Bộ và 25% tại miền núi phía Bắc. Tỷ lệ cơ giới hóa hóa với các nông sản khác cũng tăng nhanh hơn: mía (20%), chè (25%), sấy chủ động (55%).

Các công nghệ tiên tiến trong bảo quản nông sản ngày càng phổ biến, bao gồm các công nghệ CAS của Nhật Bản, bảo quản rau quả bằng khí điều chỉnh (CA), ngủ bảo quản MA, chế độ giữ lại (AVG)… Trong lĩnh vực giết, bảo quản sản phẩm sạch, các công nghệ hiện đại như CAS, plasma lạnh, làm lạnh, đóng gói MAP và chân không được áp dụng rộng rãi, giúp bảo đảm an toàn thực phẩm và tăng tính nhân văn trong sản phẩm.

Về tồn tại và hạn chế trong ứng dụng khoa học – công nghệ

Thứ nhất, quy mô ứng dụng KHCN còn nhỏ bé, số lượng sản phẩm KHCN ứng dụng vào SXNN còn khiêm tốn, chưa tương xứng với yêu cầu phát triển nông nghiệp nước nhà.

Việc chuyển giao và ứng dụng KHCN trong SXNN ở Việt Nam vẫn còn hạn chế, chủ yếu yếu diễn ra ở quy mô hộ gia đình và trang trại nhỏ. Số doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao rất ít, đến tháng 6/2021, chỉ có 49 doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận, cùng 12 vùng và 11 khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Điều này cản trở sự phát triển nền nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn và làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm.

Dù số lượng sản phẩm KHCN phục vụ nông nghiệp tăng lên (529 tương tự mới, 273 tiến bộ kỹ thuật, 185 sáng chế, 440 quy trình kỹ thuật giai đoạn 2011–2020), nhưng số lượng được chuyển giao và ứng dụng rộng rãi nhưng ít nhất, đặc biệt trong cơ giới hóa và quản lý nông sản. Giai đoạn 2016–2020, chỉ có 8 dự án cơ giới hóa, bảo quản chế độ nông sản được phát triển khai ở cấp bộ.

Ngoài ra, nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn phục vụ nông nghiệp chưa được quan tâm đúng trình độ, dẫn đến năng suất lao động ngành nông nghiệp thấp, chỉ đạt khoảng 47,39 triệu đồng/lao động/năm (giai đoạn 2015–2020), luôn dưới 50% so với mức trung bình của cả nước.

Thứ hai, trình độ KHCN ứng dụng vào SXNN còn thấp.

Theo báo cáo tổng kết chiến lược phát triển KHCN chuyên ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2013-2020) và các nghiên cứu liên quan, trình độ KHCN, đặc biệt là máy móc, thiết bị ứng dụng trong SXNN tại Việt Nam còn lạc hậu và thiếu đồng bộ, trung bình được siêu hậu hệ 2-3 thế hệ (tương đương 20-30 năm) nên với tiêu chuẩn quốc tế, thậm chí có nơi tiếp theo 4-5 thế hệ (50-70 năm).

Cơ giới hóa: Chủ yếu tập trung vào khâu làm đất (93%) và chủ yếu dành cho cây lúa; hầu hết các máy móc làm đất có công biểu nhỏ, chỉ phù hợp với quy hộ gia đình và ruộng đất manh mún.

Thu kế và bảo quản: Hầu hết máy móc, thiết bị trong các khâu này lạc hậu 20-30 năm so với thế giới; hệ số đổi mới thiết bị chỉ đạt 7%/năm, dẫn đến việc làm nông sản xuất khẩu thường chỉ dưới dạng thô hoặc sơ chế, công nghệ bảo quản cho các mặt hàng như thịt, cá, rau quả còn lạc hậu, quy mô nhỏ và chi phí cao, không cạnh tranh được trên thị trường quốc tế.

Ngoài ra, ứng dụng KHCN trong các lĩnh vực khác như thủy nông, điện khí hóa, hóa học hóa, tin học hóa vẫn ở mức độ thấp và thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa nông nghiệp. Công nghệ thông tin và số hóa chỉ được áp dụng ở chế độ hạn chế trong một số hình nông nghiệp công nghệ cao, trong khi đa số nông dân vẫn chưa tiếp cận được với mô hình nông nghiệp bền vững hiện đại.

Thứ ba, quá trình ứng dụng KHCN vào SXNN chưa mang lại hiệu quả KTXH cao và thiếu tính bền vững. 

- Hiệu quả ứng dụng KHCN chưa đạt kỳ vọng: Nhiều sản phẩm KHCN và quy trình kỹ thuật được chuyển giao vào SXNN chưa đáp ứng đồng thời yêu cầu về năng suất, chất lượng, hiệu quả và an toàn thực phẩm. Chưa có nghiên cứu liên ngành toàn diện để giải quyết vấn đề sản xuất manh mún, lạc hậu ở địa phương. Mức đóng góp của KHCN vào giá trị gia tăng của SXNN mới chỉ đạt khoảng 30%.

- Chưa trở thành động lực chính: Việc ứng dụng KHCN chưa thực sự là nhân tố quan trọng giúp phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại, bền vững. Việc khai thác tài nguyên còn mang tính tự phát, sử dụng công nghệ lạc hậu, sử dụng phân tích và thuốc bảo vệ thực vật, gây suy giảm môi trường và hệ sinh thái nông nghiệp.

- Vấn đề môi trường chưa được giải quyết triệt để: Ứng dụng KHCN vào môi trường nông nghiệp chủ yếu mang tính đối phó, chưa có giải pháp công nghệ toàn diện để xử lý tận gốc vấn đề ô nhiễm môi trường ở SXNN và khu vực nông thôn.

Đề xuất những giải pháp, chính sách cơ bản nhằm đẩy nhanh ứng dụng khoa học-công nghệ vào sản xuất nông nghiệp những năm tiếp theo

Một là, cần bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách về nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng KHCN vào SXNN.

Để hoàn thiện ứng dụng KHCN vào SXNN, cần phải thay đổi giao diện mới quản lý nhà nước theo cơ chế thị trường, xây dựng chính sách tài chính phù hợp, hỗ trợ địa phương trong ứng dụng KHCN. Đồng thời, tiếp tục hoàn thiện chính sách đất đai nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển lợi ích công nghệ tại SXNN. Bên bờ đó, cần bổ sung chính sách đầu tư khuyến khích doanh nghiệp, chủ trang trại, hộ nông dân Thúc đẩy đổi mới và ứng dụng công nghệ vào sản xuất.

Hai là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong nông nghiệp.

Nâng cao trình độ và kỹ năng cho người lao động trong nông nghiệp là giải pháp quan trọng hàng đầu, vì họ là lực lượng trực tiếp tiếp nhận và áp dụng KHCN vào sản xuất. Đồng thời, họ cũng đóng vai trò trò chuyện trong công việc sáng tạo, cải tiến thiết bị và quy trình công nghệ phù hợp với thực tiễn. Do đó, cần đổi mới nội dung, hình thức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao tri thức, kỹ năng và tư duy đổi mới cho người lao động. Điều này sẽ quyết định tốc độ ứng dụng KHCN vào SXNN trên cả nước và tại từng địa phương.

Ba là, cần phát huy vai trò và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong ứng dụng KHCN vào SXNN.

Việc thực hiện giải pháp hiệu quả này không chỉ nhanh chóng mà còn quyết định tính hiệu quả của quá trình ứng dụng KHCN vào SXNN. Trên cơ sở tài chính, chính sách của Đảng và Nhà nước, từng địa phương cần cụ thể hóa và phát triển hoạt động, phù hợp với thực tiễn. Cần phát huy vai trò, trách nhiệm của chính quyền các cấp, đặc biệt là người đứng đầu các chủ sở hữu, ban, ngành và có trách nhiệm chuyên trách trong quản lý, hướng dẫn, kiểm tra ứng dụng KHCN vào SXNN tại từng địa bàn.

Bốn là, tiếp tục nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm các nước để lựa chọn các mô hình SXNN phù hợp; đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn đồng bộ, hiện đại tạo nền tảng đẩy nhanh quá trình ứng dụng KHCN vào SXNN ở từng địa phương.

Cần nhanh chóng chuyển đổi mô hình sản xuất từ ​​​​nhỏ lẻ, manh mún sang sản xuất hàng hóa hóa lớn để cung cấp ứng dụng KHCN hiện đại cho SXNN. Ưu tiên phát triển các DN nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, các khu vực và vùng nông nghiệp công nghệ cao làm đầu tàu cho nghiên cứu, chuyển giao KHCN. Đồng thời, cần huy động và sử dụng nguồn hiệu quả để xây dựng hạ tầng nông nghiệp, nông thôn đồng bộ, hiện đại, đặc biệt là giao thông, thủy lợi, điện lực và thông tin.

Năm là, đẩy mạnh phát triển thị trường và hợp tác về KHCN phục vụ trong nông nghiệp.

Thúc đẩy hợp tác nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng KHCN với các nước có nền nông nghiệp phát triển giúp Việt Nam rút ngắn thời gian, nâng cao năng lực nghiên cứu và làm chủ công nghệ. Đồng thời, việc mở rộng hợp tác sẽ tạo ra nguồn cung cấp phong phú, giúp các chủ thể ở nước tiếp cận và lựa chọn các sản phẩm KHCN tiên tiến, hiện đại, phù hợp với SXNN.

Thứ sáu, đẩy mạnh SXNN theo chuỗi liên kết bền vững nhằm mở ra các cơ hội ứng dụng  KHCN vào SXNN ở nước ta.

Đây là giải pháp có vị trí, vai trò rất quan trọng, không chỉ góp phần đẩy nhanh quá trình ứng dụng KHCN vào SXNN một cách toàn diện, đồng bộ mà còn tạo nền tảng để kinh tế nông nghiệp nước ta phát triển theo hướng hiện đại, bền vững.

Kết luận

Để đạt được mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và đưa Việt Nam vào top 15 quốc gia có nền nông nghiệp phát triển phát triển vào năm 2030, cần thúc đẩy ứng dụng KHCN vào SXNN. Mặc dù đã có nhiều chính sách thúc đẩy và đạt được những kết quả tích cực, nhưng vẫn tồn tại ở nhiều hạn chế, làm cho quá trình phát triển chậm lại. Do đó, cần phát triển hệ thống giải pháp đồng bộ, huy động sự tham gia của trung tâm và địa phương, thực hiện triển khai, linh hoạt và tiếp tục nghiên cứu, bổ sung trong quá trình thực hiện.

ttkdinh
Theo https://www.quanlynhanuoc.vn
In bài viết  
Bookmark
Ý kiến của bạn

Video




© Copyright 2020 Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ - Sở Khoa học & Công nghệ TP. Cần Thơ
Địa chỉ: 118/3 Trần Phú - Phường Cái Khế - Quận Ninh Kiều - thành phố Cần Thơ
Giấy phép số: 05/ GP-TTĐT, do Sở Thông tin và Truyền Thông thành phố Cần Thơ cấp ngày 23/5/2017
Trưởng Ban biên tập: Ông Vũ Minh Hải - Giám Đốc Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ - Sở Khoa học & Công nghệ TP. Cần Thơ
Ghi rõ nguồn www.trithuckhoahoc.vn khi bạn sử dụng lại thông tin từ website này
-->