Nông - Lâm - Ngư nghiệp [ Đăng ngày (27/02/2025) ]
Chất lượng một số loài nguyên liệu trong sản xuất thức ăn nuôi thủy sản
Nghiên cứu: “Chất lượng một số loài nguyên liệu trong sản xuất thức ăn nuôi thủy sản” do nhóm tác giả: Trần Thị Lệ Trinh, Phạm Duy Hải, Lý Hữu Toàn, Võ Thị Quỳnh Như – Viện nghiên cứu nuôi trồng Thủy sản II thực hiện.

Nuôi trồng thủy sản đã và đang phát triển vượt bậc và trở thành lĩnh vực kinh tế mũi nhọn trong ngành nông nghiệp, hằng năm đóng góp một phần rất lớn vào kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản đạt 5.163,7 nghìn tấn, tăng 6,3% so với năm 2021. Trong đó, tổng sản lượng cá tra đạt 1.607,9 nghìn tấn tăng 10,2% so với năm 2021; tổng sản lượng tôm đạt 1080,6 nghìn tấn với 271,4 nghìn tấn tôm sú và 743,5 nghìn tấn tôm thẻ chân trắng (TCTS, 2023). Giá trị xuất khẩu thủy sản năm 2022 đã phục hồi ấn tượng đạt gần 11 tỷ USD, tăng gần 23% so với năm 2021. Trong đó, chiếm tỷ trọng lớn nhất là mặt hàng tôm với giá trị 4,3 tỷ USD, chiếm 39,5% trị giá xuất khẩu của ngành, tăng 11% so với năm 2021. Theo sau là cá tra với tổng giá trị xuất khẩu đạt 2,35 tỷ USD, chiếm 22% và tăng trưởng 70% so với năm 2021 (Báo cáo xuất nhập khẩu Việt Nam, 2022). Thức ăn thủy sản được xem là một trong những yếu tố quan trọng đóng góp cho sự phát triển của ngành nuôi trồng thủy sản. Thức ăn thủy sản được sản xuất từ ba nhóm nguyên liệu chính là nhóm nguyên liệu cung cấp protein, nhóm nguyên liệu cung cấp năng lượng và nhóm các chất phụ gia. Trong đó, protein đóng góp chính cho sự tăng trưởng của vật nuôi thủy sản bao gồm các nguyên liệu có nguồn gốc động vật như bột cá, bột đầu tôm, bột xương thịt, bột gia cầm, bột huyết, bột lông vũ thủy phân, bột gan mực hay các loại nguyên liệu cung cấp protein có nguồn gốc thực vật như khô dầu đậu nành, khô dầu hạt cải, khô dầu đậu, khô dầu dừa và khô dầu khác. Nguyên liệu có nguồn gốc thực vật thường được sử dụng để thay thế cho bột cá do có thành phần axit amin cân đối, khả năng tiêu hóa tốt, nguồn cung cấp ổn định và giá cả hợp lý. Cùng với protein, lipid cũng là yếu tố dinh dưỡng quan trọng cho sự tăng trưởng, phát triển của các loài động vật nuôi thủy sản. Dầu động và thực vật sử dụng trong thức ăn thủy sản là nguồn cung cấp các acid béo không no nhiều nối đôi thiết yếu cho động vật thủy sản như các loại dầu cá và dầu thực vật như dầu cải, dầu đậu nành, dầu lanh, dầu cọ. Các nguyên liệu cung cấp carbonhydrate cũng là nguồn cung cấp năng lượng đáng kể cho vật nuôi thủy sản bao gồm các nguyên liệu như bột mì, cám gạo, cám lúa mì... (TSVN, 2020).

Từ thực trạng sản xuất thức ăn thủy sản, việc cần thiết thực hiện một nghiên cứu khảo sát hiện trạng sử dụng và chất lượng một số nguyên liệu tại các nhà máy sản xuất thức ăn thủy sản để có được thông tin chi tiết hơn về sử dụng nguyên liệu tại các nhà máy sản xuất thức ăn và chất lượng của một số loại nguyên liệu sử dụng phổ biến trong sản xuất thức ăn thủy sản tại Việt Nam thông qua các chỉ tiêu hóa sinh và vi sinh. Việc khảo sát đánh giá chất lượng dinh dưỡng và an toàn vệ sinh thực phẩm của các loại nguyên liệu sử dụng trong sản xuất thức ăn thủy sản còn đóng vai trò quan trọng trong việc lựa chọn nguyên liệu và thiết lập công thức thức ăn tối ưu để nâng cao chất lượng thức ăn, giảm chi phí sản xuất, tăng hiệu quả kinh tế trong sản xuất thủy sản, góp phần đáng kể vào sự phát triển bền vững của ngành nuôi trồng thủy sản tại Việt Nam

Nguyên liệu thức ăn đóng vai trò then chốt đến chất lượng thức ăn và hiệu quả nuôi trồng thủy sản. Nghiên cứu này nhằm đánh giá chất lượng một số nguyên liệu chính dùng trong sản xuất thức ăn nuôi thủy sản tại khu vực Nam bộ. Tiến hành khảo sát, đánh giá chất lượng nguyên liệu tại 7 nhà máy sản xuất thức ăn thủy sản và 3 cơ sở cung cấp nguyên liệu. Kết quả khảo sát cho thấy nguồn nguyên liệu carbohydrate được sử dụng phổ biến như cám gạo, khoai mì, bột mì và cám lúa mì. Nguồn cung cấp protein chủ yếu bao gồm bã nành (44,4 - 48%), bột cá (57,2 - 66,9%), bột xương thịt (50,2 - 54,6%) và bột gia cầm (58,9 - 61,4%). Ngoài ra, không phát hiện các vi sinh vật gây bệnh như E.coli, Salmonella, Coliform, cũng như men mốc và aflatoxin trong các mẫu nguyên liệu. Nhìn chung, kết quả khảo sát cho thấy các nguyên liệu thức ăn khá ổn định về chất lượng ngoại trừ bột xương thịt và cám gạo có hàm lượng lipid, tro và xơ dao động khá lớn.

ntdinh
Theo Tạp chí nghề cá sông Cửu Long, số 24/2024
In bài viết  
Bookmark
Ý kiến của bạn

Khảo sát mức độ đau, trầm trọng hóa đau, trầm cảm và lo âu trên bệnh nhân rối loạn thái dương hàm
Tác giả Từ Thị Huyền Trang - Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh và các cộng sự đã thực hiện nghiên cứu khi các bệnh nhân đến khám tại khoa Răng Hàm Mặt – Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh bằng thang đo mô phỏng trực quan VAS, thang đo mức độ trầm trọng hóa đau PCS, bảng câu hỏi đánh giá mức độ trầm cảm PHQ-9 và bảng câu hỏi đánh giá mức độ lo âu GAD-7 với mục tiêu: (1) Xác định trung bình cường độ đau, mức độ trầm trọng hóa đau, mức độ trầm cảm và mức độ lo âu trên bệnh nhân RLTDH trên bệnh nhân RLTDH qua thang đo VAS, thang đo PCS, bảng câu hỏi PHQ-9 và bảng câu hỏi GAD-7 và (2) Xác định tương quan giữa các yếu tố cường độ đau, mức độ trầm trọng hóa đau, mức độ trầm cảm và mức độ lo âu trên bệnh nhân RLTDH.


Video  
 

Video

 



© Copyright 2020 Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ - Sở Khoa học & Công nghệ TP. Cần Thơ
Địa chỉ: 118/3 Trần Phú - Phường Cái Khế - Quận Ninh Kiều - thành phố Cần Thơ
Giấy phép số: 05/ GP-TTĐT, do Sở Thông tin và Truyền Thông thành phố Cần Thơ cấp ngày 23/5/2017
Trưởng Ban biên tập: Ông Vũ Minh Hải - Giám Đốc Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ - Sở Khoa học & Công nghệ TP. Cần Thơ
Ghi rõ nguồn www.trithuckhoahoc.vn khi bạn sử dụng lại thông tin từ website này
-->