Bệnh đạo ôn do nấm Pyricularia oryzae là bệnh hại quan trọng trên lúa và được ghi nhận gây hại phổ biến hơn 85 quốc gia trên thế giới (Rao, 1994). Bệnh có thể gây mất năng suất lúa từ 70% đến 80% và thậm chí đến 100% (Miah et al. , 2013). Thuốc trừ nấm là biện pháp chính để kiểm soát bệnh này nhưng chúng gây ra rủi ro môi trường và dẫn đến kháng thuốc (Liang et al., 2024). Việc áp dụng các tác nhân kiểm soát sinh học như vi khuẩn và nấm đối kháng, dựa trên các đặc tính thân thiện với môi trường và hiệu quả cao của chúng, đang trở thành một biện pháp thay thế để quản lý bệnh thực vật và ngày càng nhận được sự quan tâm (Lalali et al., 2022). Trong đó, vi khuẩn vùng rễ là điển hình là vi khuẩn trong chi Bacillus như Bacillus amyloliquefaciens, Bacillus velezensis, Bacillus siamensis và Bacillus subtilis có tiềm năng đáng kể trong việc giảm bệnh trên cây trồng (Wang et al., 2022), chúng sở hữu nhiều cơ chế như tiết kháng sinh, cạnh tranh và kích kháng lưu dẫn cây trồng (Zhang et al., 2023). Hai chủng vi khuẩn Bacillus 55 và Bacillus 61 được phân lập từ vùng rễ lúa lần lượt ở Cà Mau và Bạc Liêu và được ghi nhận có khả năng đối kháng cáo đối với P. oryzae. Cụ thể vi khuẩn Bacillus 55 có hiệu suất đối kháng cao với P. oryzae, đạt 44,53% ở thời điểm 7 ngày; tương tự vi khuẩn Bacillus 61 cũng có hiệu suất đối kháng đạt 45,67% (Nguyen, 2021). Bên cạnh đó, hai chủng vi khuẩn Bacillus 55 và Bacillus 61 điều duy trì hiệu quả giảm bệnh cao, trong đó vi khuẩn Bacillus 55 duy trì hiệu quả giảm bệnh đạo ôn trên lúa đến thời điểm 17 ngày sau lây bệnh (NSLB) bằng biện pháp áo hạt và tưới bổ sung huyền phù vi khuẩn ở mật số 108 cfu/mL vào thời điểm 5 ngày trước lây bệnh (NTLB) (Phan, 2022); vi khuẩn Bacillus 61 cũng có hiệu quả tương tự ng biện pháp phun huyền phù vi khuẩn này qua lá ở một số 106cfu/mL (Nguyen, 2022). Tuy nhiên, các nghiên cứu trên chỉ được tiến hành với từng chủng vi khuẩn đối kháng riêng lẻ và chưa có đánh giá về hiệu quả giảm bệnh đạo ôn cổ bông của hai chủng vi khuẩn này. Do đó, nghiên cứu này được thực hiện nhằm xác định hiệu quả phòng trị bệnh đạo ôn lá và đạo ôn cổ bông trên lúa ở điều kiện nhà lưới khi xử lý hỗn hợp huyền phù hai chủng vi khuẩn Bacillus 55 và Bacillus 61 ở các mật số khác nhau và các biện pháp xử lý khác nhau gồm ngâm hạt kết hợp tưới đất, hoặc phun lá, hoặc ngâm hạt kết hợp tưới đất và phun lá đối với đạo ôn lá; phun qua lá đối với đạo ôn cổ bông nhằm tìm ra biện pháp xử lý tối ưu trong phòng trừ bệnh đạo ôn.
Vật liệu nghiên cứu dung trong nghiên cứu là Giống lúa được sử dụng cho thí nghiệm là Jasmine 85 có đặc tính mẫn cảm với bệnh đạo ôn. Chủng nấm Pyricularia oryzae CT3 là chủng nấm độc nhất gây bệnh đạo ôn lá trên giống Jasmine 85 được sàng lọc bởi Nghị (2021) và được chọn làm nguồn vật liệu cho các thí nghiệm trước đó. Hai chủng vi khuẩn Bacillus 55 và Bacillus 61 được cung cấp bởi Phòng thí nghiệm Bệnh hại cây trồng, Khoa Bảo v Thực vật, Trường Nông nghiệp, Trường Đại học Cần Thơ. Thuốc Beam 75WP với hoạt chất Tricyclazole (từ Công ty thuốc khử trùng Việt Nam VFC).
Trong nghiên cứu,vi khuẩn Bacillus 55, Bacillus 61 được sử dụng là vi khuẩn vùng rễ kích thích cây trồng tăng trưởng được phân lập từ vùng rễ lúa,được ghi nhận mang lại hiệu quả giảm bệnh đạo ôn thông qua xử lý ngâm hạt và tưới đất với vi khuẩn Bacillus 55,hoặc phun lá với vi khuẩn Bacillus 61. Nghiên cứu được tiến hành nhằm xác định hiệu quả của việc phối hợp hai chủng vi khuẩn này với tỷ lệ 1:1,trong phòng trị bệnh đạo ôn lá,đạo ôn cổ bông trên lúa thông qua các biện pháp xử lý ngâm hạt kết hợp tưới đất,hoặc phun lá,hoặc ngâm hạt kết hợp tưới đất,phun lá trong quản lý bệnh đạo ôn lá,phun vi khuẩn vùng rễ quản lý bệnh đạo ôn cổ bông.
Qua thời gian nghiên cứu, kết quả cho thấy hỗn hợp vi khuẩn ở mật số tương ứng 106, 107 và 108 cfu/mL đều có hiệu quả phòng trị bệnh đạo ôn lá tương đương nhau.Tuy nhiên,các biện pháp xử lý hỗn hợp vi khuẩn vẫn chưa ghi nhận được sự khác biệt thống kê với nhau. Bên cạnh đó, kết quả ghi nhận hỗn hợp huyền phù vi khuẩn ở mật số 107 và 108 cfu/mL có hiệu quả phòng trị bệnh đạo ôn cổ bông và duy trì năng suất tương đương so với các nghiệm thức có xử lý thuốc Beam 75WP. |