Hoạt động [ Đăng ngày (08/07/2011) ]
Tìm thương hiệu cho chè Việt
Có đi qua các vùng chè cổ mới thấy rằng nguồn nguyên liệu quý hiếm ấy đang bị khai thác một cách manh mún, không có hệ thống. Những vùng chè cổ gần như bị bỏ hoang không được chăm sóc, quan tâm đúng mức nên đã có không ít cây chè cổ ở Hà Giang, Suối Giàng đang chết dần.

Những sản phẩm đã làm nên thương hiệu từ các vùng chè cổ cũng chỉ cung ứng cho thị trường nội địa với số lượng hạn chế, chất lượng không đồng nhất khiến việc thu hút thị hiếu người tiêu dùng thực sự khó khăn. Chưa có được những quảng bá thích hợp để người tiêu dùng Việt Nam có điều kiện tiếp cận, tìm hiểu và sử dụng, thưởng thức dòng sản phẩm độc đáo này một cách trọn vẹn.

Xét về mặt công nghiệp, Việt Nam có hơn 40 doanh nghiệp lớn sản xuất chè với máy móc hiện đại đã tạo được những dòng sản phẩm chè chuyên nghiệp cho thị trường. Tuy nhiên, tại các vùng chè đặc sản, việc sao chế lại chủ yếu bằng phương pháp thủ công, cách thu hái không đồng nhất, khiến cho nguyên liệu thì quý hiếm nhưng chất lượng sản phẩm không được ổn định. Thêm nữa, do phải qua nhiều khâu trung gian nên chè đặc sản dễ bị pha trộn, khi đến được với người tiêu dùng thì phong vị đặc sản của chè quý đã không còn nữa.

Cách quảng bá sản phẩm những vùng chè đặc sản cũng bị bỏ ngỏ, giới làm chè vẫn đang tập trung vào các nguồn chè công nghiệp, trồng đại trà mà quên đi mình đang có một nguồn chè cổ cực kỳ phong phú mà không quốc gia nào có được. Khách du lịch đến Trung Quốc sẵn sàng bỏ tiền triệu để mua những sản phẩm chè chỉ do chúng được quảng cáo quá hay. Còn ở Việt Nam, đơn cử như chè cổ Tủa Chùa, công lao thu hái, đưa về đóng gói quá vất vả, gian nan, trong khi giá bán ra thị trường 1kg chưa bằng 100g trà Ô Long bình thường nhập về từ Đài Loan, Trung Quốc.

Chè Việt – văn hoá Việt

Cách uống chè của từng vùng miền có nhiều nét đặc biệt, thể hiện những đặc trưng riêng tạo thành những nét văn hoá độc đáo. Văn hoá chè cũng đi sâu vào trong tín ngưỡng dân gian, với các nghi thức cúng tế, thờ tự đặc sắc. Trong đạo mẫu có giá đồng với tích Cô Tám đồi chè, trên vùng Suối Giàng có nghi thức người H’mông cúng cây chè tổ vào tháng 2 âm lịch để cầu cho dân bản mạnh khoẻ, đồi chè tươi tốt, búp to như bàn tay trẻ nhỏ, lá to như lá chuối rừng, hái quanh năm không bao giờ cạn. Có thể nói, chè Việt luôn là một nét gắn liền với văn hoá Việt, đưa chè Việt ra với thế giới, cũng đồng nghĩa là giới thiệu cả một vùng văn hoá đặc sắc của dân tộc Việt Nam.

Hàng năm, hiệp hội Chè Việt Nam thường tổ chức ít nhất năm chuyến đi tham gia các hội chợ chè thế giới để doanh nghiệp làm chè Việt có dịp đưa sản phẩm cụ thể của mình ra với thị trường. Và ở mỗi chuyến đi, hiệp hội Chè Việt thường chọn ra những sản phẩm chè đặc sản để trình diễn pha chế, giới thiệu với bạn bè quốc tế. Đầu năm 2011, tại hội chợ triển lãm quốc tế về ngành chè tại Singapore, hương vị chè sen của Việt Nam cùng câu chuyện sao chế, tẩm ướp chè sen đã gây ấn tượng mạnh với khách tham gia hội chợ.

Hy vọng rằng, với một văn hoá chè có bề dày lịch sử, cộng với những bước tiến của ngành chè, tương lai không xa, chúng ta có thể tự tin khẳng định: người Việt uống chè Việt. Những dòng sản phẩm chè ngoại lai với giá đắt gấp nhiều lần từ nước ngoài sẽ không còn cơ hội lấn sân thị trường Việt Nam, vốn là vùng nguyên liệu chè trù phú.

Bài và Ảnh: Lam Phong
Theo http://sgtt.vn - Trích từ Về miền cổ chè (nvdat)
In bài viết  
Bookmark
Ý kiến của bạn

Video  
 

Video

 



© Copyright 2020 Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ - Sở Khoa học & Công nghệ TP. Cần Thơ
Địa chỉ: 118/3 Trần Phú - Phường Cái Khế - Quận Ninh Kiều - thành phố Cần Thơ
Giấy phép số: 05/ GP-TTĐT, do Sở Thông tin và Truyền Thông thành phố Cần Thơ cấp ngày 23/5/2017
Trưởng Ban biên tập: Ông Vũ Minh Hải - Giám Đốc Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ - Sở Khoa học & Công nghệ TP. Cần Thơ
Ghi rõ nguồn www.trithuckhoahoc.vn khi bạn sử dụng lại thông tin từ website này
-->