Có những đặc điểm tương đồng, khác biệt về đối tượng thờ cúng, cấu trúc thờ tự và nghi lễ thờ cúng so với cơ sở mẫu của người Việt ở Bắc Bộ, tín ngưỡng thờ mẫu ở Khánh Hòa được xem là một hiện tượng văn hóa mang tính nổi trội, phổ quát và là một thành tố quan trọng trong đời sống văn hóa của cộng đồng cư dân nơi đây.
1. Nữ thần và mẫu thần ở Khánh Hòa
Tín ngưỡng thờ mẫu thần nói chung hay thờ mẫu tam phủ, tứ phủ có quan hệ mật thiết với tục thờ nữ thần. Tuy nhiên, các hình thức tín ngưỡng thờ mẫu không phải luôn luôn đồng nhất. Nói cách khác, mẫu đều là nữ thần, nhưng không phải tất cả mà chỉ một số nữ thần được cộng đồng tôn vinh mẫu thần.
Nữ thần là các vị thần nữ, một đối tượng được thờ phụng khá phổ biến trong cộng đồng các tộc người ở nước ta. Điều này biểu hiện một phần cho truyền thống trong văn hóa nông nghiệp lúa nước là coi trọng mẫu hệ.
Các nữ thần được thờ phụng phổ biến ở Khánh Hòa như bà kim, bà mộc, bà hỏa, bà thổ, và bà thủy, dân gian thường gộp chung là là bà ngũ hành hay ngũ hành thượng giới, có nơi thờ tách riêng và có bài vị ghi rõ tước vị từng bà như miếu bà Ngũ Hành trong di tích Am Chúa, miếu Thiên Y thôn Đại Điền Đông… Ngũ hành được thờ riêng ở trong các miếu hoặc được phối thờ chủ yếu trong đình và miếu mà ở đó có thờ Thiên Y A Na thánh mẫu như đình Phước Hải, miếu Linh Ứng Ngũ Hành, miếu Cổ Chi… Đây là một điều khác biệt với tín ngưỡng thờ mẫu của người Việt ở Bắc Bộ, hiếm có hiện tượng thờ Ngũ hành ở chùa, miếu, đặc biệt không có sự phối thờ Ngũ hành trong các ngôi đình. Điều này cho thấy tín ngưỡng thờ Thiên Y A Na giữ vai trò chủ đạo nhưng bên cạnh đó vẫn dung hợp những tín ngưỡng, tôn giáo khác để tạo nên sự hài hòa cũng như tính tổng hợp của văn hóa Việt Nam.
Ngũ hành, theo quan niệm dân gian, liên quan đến mọi mặt của đời sống con người không kể ngư nghiệp hay buôn bán; không kể cư dân ven biển, dọc sông hay vùng bán sơn địa. Tuy nhiên, miếu thờ riêng hay phối thờ bà Ngũ hành thường tập trung ở ven biển, ven các lạch, cửa sông. Đặc biệt các làng làm nghề cá ven biển thì thờ nhiều hơn, với mong muốn các bà phù hộ độ trì trong công việc đánh bắt cá, cầu sức khỏe, may mắn, tránh rủi ro, thiên tai… Do vậy mà các am, miếu thậm chí cả trong chùa, đình làng ở Khánh Hòa thờ bà Ngũ hành.
Khánh Hòa trước đây là vùng đất của vương quốc Chămpa, nhưng kể từ 1653, người Việt ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ đã theo chúa hiền Nguyễn Phúc Tần vào đây lập nghiệp ở Khánh Hòa và các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ. Trên bước đường nam tiến, người Việt đã mang theo cả những phong tục tập quán truyền thống của họ như thờ cúng Thành hoàng làng, thờ cúng tổ tiên, văn hóa ẩm thực… Trong đó có tín ngưỡng thờ mẫu cùng với các giá trị văn hóa dân gian tích hợp xung quanh nó là hát văn, múa bóng, hầu bóng, nhưng đã có sự biến đổi, tiếp nhận những yếu tố mới.
Trong số các mẫu thần được thờ phụng ở Khánh Hòa, thì Thiên Ya A Na được coi là mẫu thần chủ đạo, được thờ phổ biến nhất. Mẫu thần Thiên Y A Na chính là kết quả của sự Việt hóa của nữ thần Pô Inư Nưgar (nữ thần mẹ xứ sở của người Chăm). Do có sự khác biệt về tôn giáo, tín ngưỡng nên người Việt ở Khánh Hòa trải qua các các thời kỳ lịch sử đã dần dần Việt hóa các yếu tố tôn giáo, đền tháp của người Chăm thành trung tâm tín ngưỡng thờ mẫu quan trọng của người Việt.
Người dân Khánh Hòa thường gọi danh xưng của Thiên Y A Na thánh mẫu là bà chúa Ngọc, bà chúa Tiên, bà chúa Đảo… Bà là mẫu thần được thờ phụng phổ biến trong các trong các làng quê, thành thị ở Khánh Hòa như miếu, am, đình làng, chùa, gia đình, nhưng cơ sở thờ tự quan trọng, trung tâm hơn cả chính là di tích lịch sử văn hóa Tháp Bà và Am Chúa. Vì thế, mà Khánh Hòa được coi là trung tâm, nơi phát tích và tích hợp tín ngưỡng thờ mẫu cho cả miền Trung.
Tín ngưỡng thờ mẫu Tam phủ và Tứ phủ do người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ mang theo để dần dần tạo nên tính tổng hợp trong tín ngưỡng thờ mẫu ở Khánh Hòa. Trên thực tế, ở Khánh Hòa đã xuất hiện tín ngưỡng thờ tam phủ và có nghi lễ múa bóng, hầu bóng , hát văn mang tính điển hình cho cả miền Trung và Nam Trung Bộ.
Thờ mẫu Tam phủ và nghi lễ hầu đồng, hát văn được thể hiện rất rõ trong đền thờ Thánh Mẫu Đệ Nhất Tiên Thiên, xã Cam Phúc Nam, TP Cam Ranh và trong một số gia đình có tâm thức thờ mẫu ở Khánh Hòa. Điều thú vị này chúng tôi còn quan sát trong miều Thiên Y ở phường Phương Sài thuộc TP Nha Trang, mẫu Tam phủ chính là bà Thiên Y A Na biểu tượng cho mẫu thượng thiên, một bên là Long Cung thánh mẫu (mẫu thoải) và một bên là mẫu thượng ngàn.
Mẫu thượng thiên được gắn với quyền năng sáng tạo bầu trời và làm chủ mây, mưa, sấm, chớp, mặc trang phục màu đỏ. Trên vùng đất Khánh Hòa thì Thiên Y A Na được người Việt dung hợp và xem như là mẫu thượng thiên, có trang phục màu vàng. Trong quan niệm truyền thống của người Việt Bắc Bộ, mẫu thượng thiên chính là biểu hiện của tứ pháp, các vị thần tạo ra mây, mưa, sấm, chớp. Các huyền thoại về mẫu thượng thiên cũng thường liên quan đến thánh mẫu Liễu Hạnh, vị thần chủ đạo cao nhất và được cúng nhiều nhất trong tín ngưỡng thờ mẫu ở nước ta.
Ở vùng đất Khánh Hòa, Thiên Y A Na là mẫu thần chủ đạo trong đời sống văn hóa người Việt vốn có tâm thức thờ mẫu. Mặc dù mẫu Liễu Hạnh được người Việt mang vào đây, nhưng vai trò của mẫu ở Khánh Hòa rất mờ nhạt trong tâm thức của cộng đồng, không được đề cao như người Việt Bắc Bộ hoặc Bắc Trung Bộ. Nơi thờ duy nhất trong đền thờ Thánh Mẫu Đệ Nhất Tiên Thiên mà thôi. Ở đây thánh mẫu Liễu Hạnh cũng được phối thờ với đức thánh Trần Hưng Đạo như quan niệm dân gian của người Việt Bắc Bộ.
Mẫu thượng ngàn là sự hóa thân của thánh mẫu trông coi miền rừng núi, mặc áo màu xanh. Các đền thờ mẫu thượng ngàn xuất hiện khắp mọi miền, nhưng thờ phụng chính gắn với truyền thuyết là ở Suối Mỡ (Bắc Giang) và Bắc Lệ (Lạng Sơn). Mẫu thượng ngàn được thờ trong đền Thánh Mẫu Đệ Nhất Tiên Thiên, miếu Thiên Y ở phường Phương Sài, TP Nha Trang, miếu Linh Ứng Ngũ Hành ở xã Diên Toàn, huyện Diên Khánh… và trong một số gia đình cư dân Khánh Hòa.
Mẫu thoải là sự hóa thân của thánh mẫu cai quản miền sông nước, ao hồ, biển cả, làm mưa, chống lũ lụt hạn hán, thường mặc trang phục màu trắng. Một điều khác lạ mà chúng tôi quan sát được trong miếu Thiên Y ở phường Phương Sài, Tp Nha Trang là sắc phục của bà lại là màu xanh nước biển. Điều này chứng minh rằng tín ngưỡng thờ mẫu Tam phủ ít nhiều đã có sự biến đổi để phù hợp với vùng đất mới, với yếu tố biển cả của vùng đất duyên hải cực Nam Trung Bộ. Nhiều huyền thoại về bà rất phong phú. Có huyền thoại cho rằng mẫu thoải là vợ của vua Thủy Tề, được dân làng Viêm Xá, huyện Tiên Phong (Bắc Ninh) thờ làm Thành hoàng làng. Huyền thoại khác kể rằng mẫu thoải là nhiều bà, vốn là con gái Lạc Long Quân, trông coi sông biển nước Nam. Mẫu thoải được thờ phổ biến trong miếu, đền thờ mẫu ở Khánh Hòa như đền thờ Thánh Mẫu Đệ Nhất Tiên Thiên, miếu Thiên Y, miếu Linh Ứng Ngũ Hành… và trong một số gia đình cư dân ở Khánh Hòa.
Mẫu địa là thánh mẫu sáng tạo và cai quản đất cát. Nếu như sắc phục của bà trong tín ngưỡng thờ mẫu của người Việt Bắc Bộ thường màu vàng, thì vùng đất Khánh Hòa trong các điện, đền, miếu thờ, am thờ, bà thường mặc trang phục màu đen.
Bà Thiên Hậu, còn gọi bà Mã Châu, Thiên Hậu nguyên nương, Thiên Phi, được thờ chủ yếu trong cộng đông người Hoa trên khắp các vùng miền ở nước ta. Ở duyên hải Nam Trung Bộ thì đền thờ ở Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận đều có thờ bà. Trên vùng đất Khánh Hòa, bà được thờ trong chùa Bà Thiên Hậu ở thị xã Ninh Hòa; chùa Bà Thiên Hậu trong TP Nha Trang.
Diêu Trì Kim Mẫu, hay Tây Vương Mẫu vốn là một vị thần trong huyền thoại cổ đại Trung Quốc, được Đạo giáo tôn đứng đầu các vị nữ thần. Dân gian tôn bà là vị thần tượng trưng cho sự trường sinh bất tử.
Cửu Thiên Huyền Nữ vốn là nữ thần trong thần thoại cổ đại Trung Quốc, sau được Đạo giáo tín cử. Cửu Thiên Huyền Nữ và Diêu Trì Kim Mẫu được phối thờ với Thiên Y A Na thánh mẫu trong miếu Linh Ứng Ngũ Hành và trong một số gia đình ở Khánh Hòa.
Thánh Mẫu Đệ Bát Tiên Nương, theo người dân Khánh Hòa kể, vốn là một trong những nữ thần của người Chăm. Phải chăng bà chính là nữ thần Pô Inư Nưgar của người Chăm? Hiện nay bà được người Việt thờ phụng trong miếu An Lạc trên đường Phan Đình Giót, TP Nha Trang, được coi như một vị Thành hoàng làng, hàng năm cúng tế vào xuân thu nhị kỳ.
Như vậy, các vị nữ thần hay mẫu thần được thờ phụng phổ biến ở Khánh Hòa đều là kết quả của sự giao lưu, hỗn dung văn hóa của nhiều lớp cư dân Chăm, Việt và Hoa,
2. Cơ sở thờ mẫu ở Khánh Hòa
Cơ sở thờ mẫu ở Khánh Hòa về cơ bản giống như thờ mẫu của người Việt Bắc Bộ bao gồm: miếu, am, đền, chùa, gia đình, nhưng điều khác biệt là các mẫu còn được phối thờ trong các ngôi đình làng, lăng thờ cá ông, trung tâm quan trọng là Tháp Bà, Am Chúa và đền thờ Thánh Mẫu Đệ Nhất Tiên Thiên.
Trong số các cơ sở thờ mấu ở Khánh Hòa thì Tháp Bà là cơ sở mà người Việt đã kế thừa để rồi Việt hóa cả về linh vật, tên các ngôi tháp và các nghi lễ theo tín ngưỡng thờ mẫu của người Việt Bắc Bộ. Tháp Bà là trung tâm thờ mẫu quan trọng và có nghi lễ lớn nhất ở Khánh Hòa.
Một điều khác biệt mà chúng tôi nhận ra, nếu các ngôi chùa người Việt có ban thờ mẫu tam phủ hoặc tứ phủ, thì trong một số ngôi chùa ở Khánh Hòa chỉ phối thờ Thiên Y A Na mà thôi.
Nếu như các ngôi đình làng của người Việt Bắc Bộ, thành hoàng làng, vị thần cai quản và bảo trợ cho dân làng, thường là nam thần, thì ở vùng đất Khánh Hòa, thành hoàng được phối thờ với Ngũ hành, Thiên Y A Na. Đây là một hiện tượng văn hóa hiếm thấy trong các ngôi đình của người Việt Bắc Bộ. Các nữ thần và đặc biệt là Thiên Y A Na đôi khi được xem như một vị thành hoàng làng của cộng đồng cư dân Khánh Hòa.
Khánh Hòa là vùng đất duyên hải cực Nam Trung Bộ, do yếu tố biển mà người Việt có tục thờ cá ông (ông Nam Hải). Họ coi cá ông như một vị thượng đẳng thần được cộng đồng xây lăng để thờ và thường phối thờ với Thiên Y A Na, Ngũ hổ. Điều này chứng tỏ yếu tố biển không chỉ có vai trò trong cuộc sống thường nhật mà còn chiếm lĩnh một vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa tâm linh của ngư dân ven biển.
Vùng đất Khánh Hòa đã có tín ngưỡng thờ mẫu tam phủ và kèm theo đó là các nghi lễ hầu đồng, hát chầu văn. Hiện tượng văn hóa này được chúng tôi nghiên cứu và tìm thấy ở ngôi đền Thánh Mẫu Đệ Nhất Tiên Thiên. Ngôi đền do người Việt đến từ các tỉnh Bắc Bộ và Trung Bộ tạo dựng năm 1997. Trong các đền thờ, có điện thờ mẫu mang tính tổng hợp, nên, các tượng thờ mẫu có tính chất đa dạng nhất, thuần Việt nhất và số lượng nhiều nhất trong các di tích thờ mẫu ở Khánh Hòa. Tín ngưỡng thờ mẫu của người Việt không chỉ thờ một vị thần duy nhất, mà thờ cả một hệ thống thế giới thần linh, tuy mang tính chất hỗn tạp nhưng lại gần gũi với cư dân sản xuất nông nghiệp lúa nước, nương rẫy, ngư nghiệp, lâm nghiêp… Các vị thần vốn có quan hệ mật thiết với trời đất, với núi rừng, sông nước,… Hệ thống thế giới thần linh của điện thờ mẫu được sắp xếp theo trình tự như sau:
Một là Phật A di đà, Phật Thích ca mâu ni và Phật Bà Quan âm là ba pho tương tam thế của Phật giáo. Trong đó, Phật Bà Quan âm là vị bồ tát của đạo Phật, vốn là nam thần, khi vào Trung Hoa từ đời Tống thì đổi giới tính thành nữ thần. Đặc biệt, khi vào Việt Nam, bà trở thành Phật Bà Quan âm cứu khổ cứu nạn, gắn liền với tín ngưỡng dân gian người Việt. Tương truyền, trong trận kịch chiến giữa công chúa Liễu Hạnh với các phù thủy dòng Nội đạo tràng, bà đã ra tay giải cứu cho mẫu Liễu Hạnh. Từ ân đức đó, công chúa Liễu Hạnh đã quy y và mở đường cho sự hội nhập giữa tín ngưỡng thờ mẫu dân gian với Phật giáo. Do vậy, điện thần, cũng như nhiều nghi lễ của tín ngưỡng thờ mẫu đều thấy sự hiện diện Phật Bà Quan âm.
Hai là Ngọc hoàng, vị thánh với tư cách vua cha trong tín ngưỡng thờ mẫu, có ban thờ riêng, thường ở hàng thứ hai trong điện thờ ở các đền, phủ dưới Phật Bà Quan âm. Tuy nhiên, vai trò của Ngọc hoàng trong nghi lễ và thờ cúng, trong tâm thức dân gian thì lại mờ nhạt. Ngọc hoàng được coi là vị thần linh cao nhất trong Đạo giáo Trung Hoa, đã được phối thờ khá muộn trong tín ngưỡng thờ mẫu cũng như các tín ngưỡng và tôn giáo khác của người Việt.
Ba là mẫu Tam phủ, còn được gọi là tam tòa thánh mẫu hay còn gọi là tam giới thánh mẫu, được xem như có quyền năng sáng tạo vũ trụ duy nhất.
Mẫu thể hiện quyền năng sáng tạo vũ trụ duy nhất, nhưng lại hóa thân thành tam vị, tứ vị thánh mẫu cai quản các miền khác nhau của vũ trụ: mẫu thiên, mẫu thoải, mẫu thượng ngàn.
Bốn là Ngũ vị vương quan đứng sau hàng mẫu. Theo quan niệm của người Việt thì đây là các vị thần có chức năng thừa hành mệnh lệnh của các thánh mẫu: quan lớn đệ nhất là phái viên của mẫu thượng thiên, có sắc vóc xinh đẹp, áo đỏ, khăn đỏ; quan lớn đệ nhị là phái viên của thánh mẫu thượng ngàn, mặc áo màu lục, khăn lục; quan lớn đệ tam là sự hiện thân của mẫu thoải, sắc phục màu trắng; quan lớn đệ tứ là hiện thân của mẫu địa phủ, y phục màu vàng; còn quan lớn đệ ngũ, gọi là quan tuần tranh, được thờ trong điện dưới dạng hai con rắn bằng giấy (là thanh xà và bạch xà).
Năm là lục vị thánh bà hay lục vị chầu bà, thường được gọi là tứ vị chầu bà, là sự hóa thân của bốn thánh mẫu. Nhưng thực tế thường có tới sáu thánh mẫu thuộc hàng chầu thậm chí lên đến 12 vị chầu bà. Trong đó, chầu bà đệ nhất, chầu lục cùng chầu bé thường giáng đồng, được dân gian biết rõ thần tích nên có nơi thờ tự riêng. Còn các vị khác thì ít giáng đồng.
Chầu đệ nhất là hóa thân của mẫu thượng thiên, chầu đệ nhị là hóa thân của mẫu thượng ngàn, vị thánh thống soái trong hàng chầu, cai quản vùng núi rừng, không ai ngồi đồng mà bà không giáng. Khi giáng, bà mặc trang phục Mán, màu xanh, đặc trưng cho nhạc phủ. Chầu đệ tam là hóa thân của mẫu thoải, vị mẫu có dáng vẻ u buồn, y phục và khăn màu trắng. Chầu đệ tứ là vị thánh nắm vai trò khâm sai tứ phủ, tuy đứng đầu địa phủ. Có khi bà hóa thân dưới dạng chầu thoải phủ, mặc màu áo trắng, múa mái chèo, khi lại hóa thành mẫu thiên phủ, mặc áo đỏ, múa quạt. Chầu đệ ngũ ít khi giáng đồng, ít khi được biết đến dưới trần gian. Ngoài ra, còn có các vị chầu khác như: Chầu Thất Tiên La (Hưng Hà - Thái Bình), Chầu Cửu (Bỉm Sơn - Thanh Hóa). Các vị thánh hàng Chầu đều có nguồn gốc từ các tộc người sinh sống miền núi rừng, thuộc nhạc phủ, dòng tiên nữ; đối lập với các vị quan thuộc dòng thủy phủ. Khi giáng đồng, các chầu đều ăn mặc theo trang phục tộc người Tày, Nùng, Dao, Mường.
Sáu là ngũ vị Hoàng tử, được đặt dưới hàng chầu, thông thường gồm có ông hoàng đệ nhất tới ông hoàng đệ thập. Trong điện thờ Thánh Mẫu Đệ Nhất Tiên Thiên chỉ có ba ông hoàng mà thôi. Trong điện thờ chỉ có hình ảnh ông hoàng bơ (ba), nơi thờ chính là đền Lảnh (Hà Nam) có công phò vua đánh giặc. Ông hoàng bảy (Ông hoàng bảy Bảo Hà) là viên quan triều đình ấn giữ vùng Yên Bái- Lào Cai. Ông hoàng mười là một quan văn đời Lê, gốc Nghệ An, nơi thờ chính ở Bến Thủy - Nghệ An. Đây là ba ông hoàng thường hay giáng đồng. Khi giáng đồng, ba ông hoàng thường có phong cách gần giống các quan lớn, tuy nhiên, có phần phong nhã, vui tươi và có quan hệ với người trần gian vui vẻ hơn so với các quan.
Bảy là các cô và cậu. Điện thờ này chỉ xuất hiện hai cậu, các cậu thường là những người chết trẻ, thường từ 1 - 9 tuổi. Đây là những người phụ tá của các ông hoàng. Thường khi lên đồng đều có các cậu, những giá đồng với tính cách phóng túng, nghịch ngợm, quần áo kỳ cục, lời nói ngọng nghịu của trẻ con. Kèm theo là các điệu múa lân khá sôi nổi. Thờ cô, cậu là sự tôn vinh tính thiện; mong muốn sinh sôi, phát triển. Đây là biểu hiện cho những người con của các mẫu, những người gần gũi với các mẫu nhất.
Tám là quan ngũ hổ và ông lốt (rắn). Nơi thờ hai ông là ở hạ ban, bên dưới điện thờ ông hoàng và cậu quận, ngoài ra còn có hình tượng đôi bạch xà nằm vắt ngang trên điện thờ chính.
Cuối cùng là Đức Thánh Trần Hưng Đạo và Quan Công. Trong tín ngưỡng thờ mẫu, người Việt Bắc Bộ bao giờ cũng có Đức Thánh Trần, đặt ở trong điện thờ và ngang hàng với hàng mẫu Tam phủ. Trong tín ngưỡng thờ mẫu thuần Việt thì Đức Thánh Trần thường được phối thờ với Thánh mẫu Liễu Hạnh. Miền Trung và duyên hải Nam Trung Bộ, trong điện thờ mẫu còn có tượng Quan Thánh Đế Quân (Quan Vũ) - một vị tướng thời Tam Quốc của Trung Hoa, một tấm gương về lòng trung hiếu tiết nghĩa. Bên cạnh ngôi đền thờ mẫu còn có lăng thờ cá ông, đây cũng là một hiện tượng văn hóa khá phổ biến trong tín ngưỡng thờ nữ thần và mẫu thần ở Khánh Hòa và miền Trung.
3. Nghi lễ thờ mẫu ở Khánh Hòa
Ở Khánh Hòa, nơi nào có tín ngưỡng thờ nữ thần và mẫu thần thì thường có múa bóng, còn những nơi có đền thờ mẫu Tam phủ, Tứ phủ thì có hầu đồng, hát văn. Nghi lễ múa bóng, hầu đồng (trong lễ hội Tháp Bà, Am Chúa, lễ cúng đền thờ Thánh Mẫu Đệ Nhất Tiên Thiên, miếu Linh Ứng Ngũ Hành…) là những nghi lễ nhập hồn nhiều lần của các vị thần linh vào thân xác các ông, bà đồng nhằm cầu tài lộc, sự bình an, mùa màng bội thu, mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, diễn xướng kể về các công lao của các nữ thần và các mẫu thần. Nghi lễ múa bóng, hầu đồng trong các lễ hội liên quan đến thờ mẫu ở Khánh Hòa cũng thường mô típ theo tín ngưỡng thờ mẫu của người Việt Bắc Bộ như: hát văn và nhạc chầu văn, múa dâng bông (dâng hoa)… tạo nên một tổng thể diễn xướng tâm linh. Đặc biệt ở Khánh Hòa, mỗi khi đến lễ hội Tháp Bà (20 - 23 tháng 3 âm lịch hàng năm) còn có những đoàn múa bóng của người Chăm thuộc các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận về tham dự. Múa bóng của người Chăm thường hay thực hiện ngay dưới chân của các ngôi tháp trong quần thể Tháp Bà, kèm theo là các đồ cúng mặn; múa bóng, hầu đồng của người Việt thường được thực hiện ở sân khấu phía trước Mandapam (tiền sảnh).
Nếu nghi thức múa bóng và đặc biệt là hầu đồng của người VIệt Bắc Bộ thường được diễn ra theo một trình tự nghiêm ngặt, nhiều nghi lễ cùng với âm nhạc chầu văn tạo nên một tổng thể diễn xướng dân gian ở trong các điện, đền thờ mẫu, thì nghi thức múa bóng, hầu đồng trong tín ngưỡng thờ mẫu ở Khánh Hòa thường đơn giản hơn, có sự pha trộn giữa văn hóa Việt và văn hóa Chăm. Trên thực tế, một số ngôi đền, miếu, am và kèm theo nghi lễ hầu bóng ở Khánh Hòa đều có nguồn gốc từ người Việt ở Bắc Bộ mang vào. Tuy nhiên, khi mang vào vùng đất mới, tín ngưỡng thờ mẫu và hầu bóng ở Khánh Hòa có những sắc thái văn hóa riêng, thể hiện trong điện thờ mẫu xuất hiện thêm các vị thần địa phương, như Thiên Y A Na, Quan Công, ông Nam Hải, cùng các vở tuồng, hát bá trạo, múa chèo thuyền, âm nhạc Chăm… đan xen trong các nghi lễ hầu bóng. Trong lễ hội Tháp Bà, Am Chúa, đền thờ Thánh Mẫu Đệ Nhất Tiên Thiên,… nghi thức múa bóng, hầu đồng đều được cắt bớt phần quy chuẩn nghi lễ như tục thờ mẫu của người Việt Bắc Bộ.
Như vậy, ở Khánh Hòa tín ngưỡng thờ mẫu đã hội tụ cả ba lớp: thờ nữ thần, mẫu thần và mẫu tam phủ, tứ phủ, tương đồng với tín ngưỡng thờ mẫu ở Bắc Bộ và Nam Bộ, tuy nhiên, nguồn gốc hình thành, cấu trúc, đối tượng thờ tự và nghi lễ có những nét khác biệt. Thờ mẫu ở Khánh HÒa không có sự phát triển theo một diễn trình lịch sử như Bắc Bộ, mà linh hoạt, đa dạng do môi trường tự nhiên, hoàn cảnh lịch sử xã hội, sự giao lưu ảnh hưởng của văn hóa Việt - Chăm.
Tín ngưỡng thờ mẫu ở Khánh Hòa là phương thức ứng xử của con người vùng biển với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội; là kết quả của giao lưu và tiếp biến văn hóa Việt - Chăm, sự trao truyền các giá trị văn hóa, sự cố kết các cộng đồng người…đáp ứng nhu cầu hưởng thụ và bảo tồn văn hóa, góp phần phát huy các giá trị văn hóa và tạo nên sự khác biệt trong phát triển văn hóa du lịch ở Khánh Hòa.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Văn bản chỉ đạo và Quản lý của Đảng, Nhà nước về lễ hội, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2011.
2. Nguyễn Văn Bốn, Văn hóa tín ngưỡng thờ Mẫu ở Khánh Hòa, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2010.
3. Chu Xuân Diên, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Tp.HCM, 2008.
4. Doãn Hiệp Lý (Chủ biên), Từ điển văn hóa cổ truyền Trung Hoa, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1994.
5. Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Tổng hợp Tp. HCM, 1997.
6. Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2007.
7. Ngô Đức Thịnh (Chủ biên), Bảo tồn, làm giàu & phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong đổi mới và hội nhập, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2010.
8. Ngô Đức Thịnh, Thờ Mẫu và hình thức múa bóng, hầu bóng ở Nam bộ, Nxb Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 1, Hà Nội, 2005.
9. Nguyễn Hữu Thông (Chủ biên), Tín ngưỡng thờ Mẫu ở miền Trung Việt Nam, Nxb Thuận Hóa, Huế, 2001.
10. Trần Quốc Vượng (Chủ biên), Cơ sở văn hóa Việt Nam (tái bản), Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2010.
11. Nguyễn Như Ý (Chủ biên), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1999.
12. Ủy Ban nhân dân tỉnh Khánh Hòa, Văn hóa biển đảo Khánh Hòa, Nxb Sở Thông tin và Truyền thông Khánh Hòa, 2012.
|