Quang động liệu pháp là gì?
Quang động liệu pháp (photodynamic therapy - PDT) là sự kết hợp một dược phẩm gọi là chất gây cảm quang (photosensitizer) với một loại ánh sáng thích hợp để diệt các tế bào ung thư. Cơ quan thực - dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) chấp nhận chất cảm quang gọi là porfimer sodium (Photofrin), sử dụng trong PDT để điều trị hay làm thuyên giảm những triệu chứng của một vài dạng ung thư.
Cơ chế tác động của PDT
Trong bước một của PDT điều trị ung thư chất cảm quang được đưa vào hệ tuần hoàn (tiêm). Hoạt chất này sẽ được các tế bào khắp cơ thể hấp thu, tuy nhiên nó tồn tại trong các tế bào ung thư lâu hơn là trong các tế bào bình thường. Chất cảm quang trong khối u sẽ hấp thu ánh sáng chiếu xạ và sản sinh ra oxy hoạt lực làm chết các tế bào ung thư. PDT còn làm teo hay tiêu diệt khối u bằng hai cách gián tiếp: làm hư các mạch máu trong khối u và kích thích hệ miễn dịch tấn công tế bào ung thư.
Ánh sáng dùng trong PDT có thể là tia laser hay những nguồn ánh sáng khác. Ánh sáng laser có thể theo dây quang học để chiếu xạ những vùng sâu trong cơ thể (phổi, họng). Một nguồn ánh sáng khác có thể dùng là các đèn lưỡng cực phát sáng (LED) được dùng điều trị những khối u bề mặt như ung thư da.
Dạng ung thư nào hiện được điều trị với PDT?
Hiện tại Cơ quan thực - dược phẩm Hoa Kỳ chấp nhận chất cảm quang portfimer sodium trong PDT để điều trị ung thư vòm họng và ung thư phổi (dạng tế bào không nhỏ). Porfitmer sodium được công nhận là có tác dụng giảm bớt triệu chứng của ung thư vòm họng khi ung thư làm nghẹn cuống họng hay khi ung thư không đáp ứng tốt với laser liệu pháp. Portfimer sodium được dùng trong điều trị ung thư phổi (dạng tế bào không nhỏ) khi căn bệnh không thể áp dụng những liệu pháp cổ điển hay khi bệnh làm nghẹt khí quản.
Những giới hạn của PDT
Ánh sáng cần để kích hoạt chất cảm quang không thể đi sâu vào mô hơn 1 cm. Vì vậy PDT thường được sử dụng để điều trị những khối u ngoài da hoặc dưới da hay lớp sàn của các cơ quan hay các xoang. PDT ít hiệu quả trong điều trị những khối u lớn vì ánh sáng không thể đi sâu vào bên trong. PDT cũng thường chỉ dùng cho những ung thư khu trú.
Chất cảm quang có khuynh hướng tích tụ trong khối u và ánh sáng kích hoạt thì được chiếu xạ vào khối u vì vậy sự tổn hại của những mô lành được giảm thiểu. Tuy vậy, PDT cũng có thể gây bỏng, sưng, đau, hóa vôi cho những mô lành kế cận. Một tác dụng phụ khác của PDT liên hệ đến vùng được điều trị: ho, khó nuốt, đau bao tử, khó thở, hơi thở ngắn,... Tuy vậy những triệu chứng này chỉ thoáng qua.
Tương lai của PDT
Những khảo cứu được tiếp tục thực hiện nhằm tìm ra cách cải thiện hiệu quả của PDT và mở rộng sang những dạng ung thư khác. Thử nghiệm lâm sàng thực hiện đánh giá việc sử dụng PDT điều trị ung thư não, da, tuyến tiền liệt, cổ tử cung, ổ bụng. Hướng tìm kiếm khác tập trung vào việc phát triển những chất cảm quang mạnh mẽ hơn và đặc thù hơn đối với những tế bào ung thư đích, và được kích hoạt bởi ánh sáng có thể đi xuyên qua mô sâu hơn để điều trị sâu hay những khối u lớn. Hướng tìm kiếm còn nhằm để phát hiện cách thức cải thiện những trang bị cấp và kích hoạt ánh sáng. |