Môi trường

Tăng trưởng dân số, phát triển kinh tế và đô thị hóa tại các thành phố đã và đang gây ra nhiều áp lực đến quản lý chất thải rắn (CTR) đô thị. Quá trình đô thị hóa tạo ra nhu cầu lớn hơn về tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ, khiến cho CTR không ngừng tăng khối lượng, đa dạng về thành phần, và mức độ nguy hại. Tiêu thụ hàng hóa và sản phẩm tiêu dùng gia tăng, đặc biệt là các sản phẩm đóng gói và sản phẩm có chu kỳ sử dụng ngắn. Văn hóa tiêu dùng hiện đại thường khuyến khích sự tiêu thụ với quy mô lớn và sự đổi mới liên tục, ngày càng tạo ra nhiều CTR hơn, đặc biệt là chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH). CTRSH phát sinh ở Việt Nam hiện nay khoảng 23,6 triệu tấn/năm 35.000 tấn/ngày tại khu vực đô thị và 28.000 tấn/ngày tại khu vực nông thôn, tăng 46% so với năm 2010. Trong đó, khoảng 25% tổng lượng phát sinh tại các thành phố, đô thị lớn như Thành phố Hồ Chí Minh (3,4 triệu tấn/năm), thủ đô Hà Nội (2,4 triệu tấn/năm), Bình Dương (0,97 triệu tấn/năm), Thanh Hoá (0,8 triệu tấn/năm), Hải Phòng (0,7 triệu tấn/năm), Đồng Nai (0,69 triệu tấn/năm), Quảng Ninh (0,56 triệu tấn/năm), Bình Thuận (0,54 triệu tấn/năm) và Đà Nẵng (0,39 triệu tấn/ năm). Theo báo cáo, khoảng 83 - 85% CTR phát sinh tại các đô thị được thu gom và xử lý, còn lại khoảng 15 - 17% bị thải bỏ ra môi trường hoặc xử lý không phù hợp như chôn lấp lộ thiên tại bãi đất, ao hồ hoặc đốt lộ thiên, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Lượng CTRSH không ngừng tăng đã trở thành gánh nặng với cơ quan quản lý trong việc đảm bảo thu gom và xử lý toàn bộ rác thải.
Hiện nay, với sự phát triển của xã hội, ngành dệt may ngày càng gia tăng sản lượng sản xuất. Ngành này đã thu hút sự đầu tư lớn với hơn 5.000 doanh nghiệp. Tuy nhiên, sự phát triển đó kéo theo các vấn đề ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng do nước thải dệt nhuộm có dư lượng hóa chất lớn. Trong nước thải dệt nhuộm có những thành phần dễ hòa tan bởi vi sinh vật và khó phân hủy như polyvinyl axetat, thuốc nhuộm phân tán, thuốc nhuộm hoạt tính và các chất tẩy trắng vải. Một đặc điểm của nước thải dệt nhuộm là thường có màu gây ảnh hưởng đến cảm quan và chất lượng nguồn nước. Khi công nghiệp hóa ngày càng gia tăng sẽ dẫn đến ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và trở thành một vấn đề toàn cầu. Hiện nay có khoảng hơn 100.000 loại thuốc nhuộm dệt may được bán trên thị trường và khoảng 700.000 ÷ 1.000.000 tấn thuốc nhuộm được sản xuất trong đó có 280.000 tấn nước thải từ ngành dệt may đã thải vào môi trường toàn cầu hàng năm.
Hệ thống thông tin địa lý GIS (Geographic Information Systems) là một hệ thống công cụ máy tính để thu thập, lưu trữ, kiểm tra và hiển thị dữ liệu liên quan đến các vị trí trên bề mặt Trái đất. GIS được ứng dụng trong nhiều nghiên cứu thuộc nhiều lĩnh vực nhằm phục vụ công tác quản lý, đánh giá hiện trạng của các đối tượng nghiên cứu. Lê Quang Cảnh và nhóm tác giả đã ứng dụng GIS để xây dựng bản đồ bị tổn thương do nước biển dâng gây ra đối với diện tích đất trồng lúa ở dải ven biển tỉnh Phú Yên. Bùi Thu Phương, Nguyễn Thị Lệ Hằng đã sử dụng GIS để nghiên cứu, đánh giá thực trạng của công tác quản lý đất đai và biến động đất đai cấp huyện. Nghiên cứu của Phạm Trí Công đã sử dụng GIS/GPS để xây dựng hệ thống quản lý mất rừng, giúp xác định chính xác vị trí và diện tích các điểm mất rừng, xác định nhanh chóng ranh giới các điểm mất rừng và giúp xác định chính xác và nhanh chóng đường đi đến điểm mất rừng. Công nghệ GIS đã được Vũ Lê Ánh, Lê Thị Minh Phương sử dụng để phân tích, thành lập bản đồ khu vực ô nhiễm không khí và tính toán số lượng nhà dân nằm trong vùng thiệt hại tại quận Thanh Xuân khi xảy ra vụ cháy công ty Rạng Đông. Ứng dụng GIS cũng được sử dụng trong các nghiên cứu như xây dựng bản đồ ô nhiễm nước mặt tại thành phố Cẩm Phả, Quảng Ninh, thành lập bản đồ nguy cơ trượt lở huyện Xín Mần, Hà Giang, quản lý lịch sử biến động của thửa đất, xây dựng bản đồ chất lượng nước mặt khu vực khai thác khoáng sản tại huyện Hoành Bồ, Quảng Ninh. Có thể thấy, các bản đồ được thành lập đã giúp thể hiện dữ liệu về các đối tượng nghiên cứu theo không gian, từ đó hỗ trợ công tác đánh giá và quản lý sự việc, hiện tượng hiệu quả hơn.
Nước thải từ hoạt động chăn nuôi lợn tại Việt Nam đang trở thành một trong những nguồn ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Theo ước tính của Cục Chăn nuôi, ngành chăn nuôi thải ra khoảng 73 triệu tấn chất thải rắn mỗi năm, trong đó chất thải từ chăn nuôi lợn chiếm khoảng 24,38 triệu tấn, tương đương 33,4% tổng lượng chất thải. Đáng chú ý, khoảng 50% chất thải rắn và 80% chất thải lỏng từ chăn nuôi lợn được xả thẳng ra môi trường mà không qua xử lý, dẫn đến ô nhiễm nghiêm trọng. Nước thải chăn nuôi lợn chứa hàm lượng cao các chất hữu cơ, chất dinh dưỡng như nitơ và phốt pho, cùng với vi sinh vật gây bệnh, gây ra mối đe dọa lớn đối với sức khỏe cộng đồng và môi trường.
Trong những năm gần đây, chất thải rắn sinh hoạt gia tăng cả về thành phần, khối lượng, tính độc hại, gây ô nhiễm môi trường ở một số đô thị ở Việt Nam. Mục tiêu nghiên cứu này là đánh giá thực trạng công tác thu gom, vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt phát sinh trên địa bàn quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng. Từ đó, nghiên cứu đề xuất các giải pháp phù hợp cho công tác thu gom, vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt tại quận Liên Chiểu. Nghiên cứu đã sử dụng phương pháp thu thập, phân tích, tổng hợp tài liệu, phương pháp điều tra thực địa và xử lý số liệu.
Xanh methylene (MB) là loại thuốc nhuộm azo bền, có khả năng chống chịu tốt với axit, bazo, có cấu trúc phức tạp, ổn định trong không khí, ít thay đổi về mặt cấu trúc hóa học và được ứng dụng rộng rãi trong công nghiệp y sinh, nhuộm, thuộc da, giấy, v.v. Nước thải chứa thuốc nhuộm nói chung và MB nói riêng được tạo ra trong quá trình sản xuất có sử dụng MB thường có nồng độ, độ màu cao, khó tự phân hủy và gây ra nhiều hệ lụy nếu thải trực tiếp vào môi trường như ô nhiễm chất hữu cơ và lượng oxi hòa tan sẽ giảm đi. Khi nồng độ ô nhiễm tăng cao có thể gây chết hàng loạt cho các loài thực vật, động vật thủy sinh và làm hỏng hệ sinh thái dưới nước. Ngoài ra, MB có thể gây tổn thương không thể phục hồi cho mắt người, nhịp tim tăng, nôn mửa, thậm chí là gây ung thư. Do đó, việc tìm ra phương pháp xử lý MB khỏi dòng chất thải trước khi thải vào nguồn nước với chi phí thấp, áp dụng hiệu quả và thân thiện với môi trường sinh thái là rất quan trọng.
Ô nhiễm asen (As) trong đất là một vấn đề môi trường nghiêm trọng, có tác động sâu rộng đến chất lượng đất, sức khỏe con người và động thực vật. Với khả năng tích tụ trong môi trường, As không chỉ làm giảm độ phì nhiêu của đất mà còn gây ra những rủi ro lớn cho hệ sinh thái, bao gồm sự suy giảm đa dạng sinh học và nguy cơ tích tụ As trong chuỗi thực phẩm.
Khai thác khoáng sản đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế Việt Nam, cung cấp nguyên liệu thiết yếu cho các ngành công nghiệp và đóng góp lớn vào GDP. Năm 2022, ngành khai khoáng chiếm khoảng 7,1% GDP với giá trị sản xuất hơn 406.000 tỷ đồng, trong đó xuất khẩu dầu thô và than đá đóng góp gần 10% tổng kim ngạch xuất khẩu. Ngành này không chỉ tạo việc làm cho hơn 400.000 lao động trực tiếp mà còn hàng triệu lao động gián tiếp, đồng thời thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng tại các khu vực khai thác. Tuy nhiên, sự phát triển bền vững trong ngành khai thác khoáng sản là một thách thức lớn, đòi hỏi phải chú trọng đến bảo vệ môi trường và quản lý tài nguyên một cách hiệu quả. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc khai thác khoáng sản có thể gây ra những tác động tiêu cực đến môi trường, như ô nhiễm nước mặt và nước ngầm, cũng như suy giảm chất lượng đất. Do đó, việc áp dụng các phương pháp khai thác có trách nhiệm và bền vững là cần thiết để giảm thiểu những tác động này. Việc tích hợp các khái niệm sinh thái công nghiệp vào quản lý chất thải và thực hiện các hoạt động phục hồi sau khai thác là những biện pháp quan trọng để đảm bảo tính bền vững trong ngành. Ngoài ra, việc phát triển công nghệ xanh trong khai thác khoáng sản cũng là một yếu tố quan trọng. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc cải thiện hiệu suất và tính bền vững của các phương pháp khai thác có thể đạt được thông qua đổi mới công nghệ và tối ưu hóa quy trình khai thác. Hơn nữa, việc thực hiện các báo cáo bền vững trong ngành khai thác khoáng sản cũng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức về trách nhiệm xã hội và môi trường của các công ty khai thác.
Phát triển chăn nuôi theo hướng xanh, tuần hoàn mang tầm chiến lược lâu dài nhằm giảm thiểu áp lực môi trường, nâng cao giá trị kinh tế, tăng thu nhập cho người chăn nuôi. Trong đó, kinh tế tuần hoàn đã được quy định rõ theo Khoản 1, Điều 142 Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) năm 2020, theo đó “Kinh tế tuần hoàn là mô hình kinh tế trong đó các hoạt động thiết kế, sản xuất, tiêu dùng và dịch vụ nhằm giảm khai thác nguyên liệu, vật liệu, kéo dài vòng đời sản phẩm, hạn chế chất thải phát sinh và giảm thiểu tác động xấu đến môi trường”. Các mô hình nông nghiệp tái sử dụng phụ phẩm hoặc các sản phẩm đầu ra của quy trình sản xuất này được làm đầu vào cho quy trình sản xuất khác đang trở thành xu hướng phát triển bền vững, đặc biệt là các mô hình tái sử dụng phụ phẩm chăn nuôi có nguồn gốc hữu cơ cho cây trồng. Phụ phẩm chăn nuôi chủ yếu là các sản phẩm phụ đặc trưng được tạo ra từ hoạt động chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm như chất độn chuồng đã sử dụng, thức ăn thừa, xác vật nuôi chết không phơi nhiễm mầm bệnh và độc tố có thể được tận dụng hoặc sử dụng lại cho các mục đích khác trong các nhóm tiểu ngành nông nghiệp. Về khía cạnh kinh tế và môi trường, mô hình chăn nuôi - trồng trọt tuần hoàn vừa tăng doanh thu cho cơ sở chăn nuôi và cải thiện thu nhập cho người nông dân vừa hạn chế tổn hại cho môi trường trong hiện tại và tương lai.
Tài nguyên nước là thành phần chủ yếu của môi trường sống, là yếu tố đặc biệt quan trọng bảo đảm thực hiện thành công các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia. Tuy nhiên, quá trình khai thác, sử dụng tài nguyên nước chưa hợp lý, thiếu bền vững đã và đang gây suy giảm tài nguyên nước, đặc biệt là những thách thức đối với chất lượng nước do quá trình tiếp nhận nước thải từ các hoạt động dân sinh kinh tế. Ô nhiễm nước mặt đang là vấn đề môi trường nói chung và Việt Nam nói riêng. Để đưa ra được các giải pháp về vấn đề môi trường nước mặt, Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu khoa học về nguyên nhân ảnh hưởng đến môi trường nước mặt. Trong đó có các nghiên cứu về ảnh hưởng của con người đến môi trường nước mặt như: Báo cáo của UNEP nghiên cứu về tình trạng ô nghiễm nước mặt ở châu Phi và châu Mỹ hiện đang bị ô nghiễm bởi các vi sinh vật do hoạt động xả nước thải và rác thải sinh hoạt, Nghiên cứu về chất lượng nước sông Ray, Việt Nam cho thấy chất lượng nước sông Ray đang bị ô nghiễm do hoạt động của con người bao gồm nước thải công nghiệp, phân bón phosphate trong nông nghiệp và hoạt động chăn nuôi. Ngoài ra, một số nghiên cứu về ảnh hưởng của các khu công nghiệp và hoạt động của con người đến chất lượng nước mặt thành phố Cần Thơ, hay nghiên cứu về các mô hình chất lượng nước mặt,… các tác giả đã nghiên cứu ảnh hưởng từ hoạt động của con người đến chất lượng nước mặt.
Trước 1 [2] 3 4 5 6 7 8 9 10 Tiếp



© Copyright 2020 Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ - Sở Khoa học & Công nghệ TP. Cần Thơ
Địa chỉ: 118/3 Trần Phú - Phường Cái Khế - Quận Ninh Kiều - thành phố Cần Thơ
Giấy phép số: 05/ GP-TTĐT, do Sở Thông tin và Truyền Thông thành phố Cần Thơ cấp ngày 23/5/2017
Trưởng Ban biên tập: Ông Vũ Minh Hải - Giám Đốc Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ - Sở Khoa học & Công nghệ TP. Cần Thơ
Ghi rõ nguồn www.trithuckhoahoc.vn khi bạn sử dụng lại thông tin từ website này
-->