Kỹ thuật mới này do Kỹ sư Tào Mạnh Cương, phó phòng Quản lý chất lượng, Công ty Cổ phần cao su Phước Hòa, tỉnh Bình Dương tìm ra. Hiện đã có rất nhiều đơn vị chế biến cao su học hỏi để áp dụng.
Lợi trên 5 tỷ đồng/năm
Cao su nguyên liệu loại SV RCV là loại tốt, có độ nhớt ổn định, dễ gia công, thêm phụ gia… Để sản xuất được cao su SVRCV phải xác định được độ nhớt nguyên liệu mủ đầu vào. Độ nhớt “Mooney vicosity” hiểu đơn giản là độ cứng, mềm của sản phẩm mủ. Sản phẩm cao su SVR CV 50 thì độ nhớt phải đạt là 45 – 55, SVR CV 60 là 55 – 65.
Thông thường các công ty sơ chế cao su thiên nhiên với qui mô lớn (đại điền) xác định được trước độ nhớt dựa vào giống và vùng nguyên liệu. Tuy nhiên, những thay đổi trong chế độ cạo, yếu tố thời vụ, thời tiết, công tác quản lý… vẫn ảnh hưởng đến độ nhớt đã khảo sát.
Trong khi đó, nguồn mủ từ các hộ tiểu điền rất khó xác định độ nhớt để sản xuất cao su SVR CV, mà thường sản xuất cao su loại SVR 3L (giá không cao). Ngoài dựa vào giống, vùng nguyên liệu, để xác định được độ nhớt mủ cao su, các kỹ thuật trước đó cần phải mất đến 12 giờ và bộc lộ nhiều hạn chế.
Trăn trở trước điều này, kỹ sư Cương bắt tay vào nghiên cứu. Sau gần hai năm anh đã đưa ra được kỹ thuật “Ứng dụng vi sóng để xác định độ nhớt “Mooney viscosity” nguyên liệu mủ nước trong sản xuất SVR CV”. Kỹ thuật mới này cho phép giảm thời gian xác định độ nhớt từ 12 giờ xuống chưa đầy 20 phút. Nói về lợi ích của kỹ thuật mới, anh Cương tâm sự: việc rút ngắn thời gian làm cho đơn vị ứng dụng chủ động kiểm soát được nguồn nguyên liệu đầu vào để sản xuất mủ cao su có chất lượng tốt. Vì thế sản lượng cao su có chất lượng cao – SVR CV tăng lên nhiều lần.
Ông Nguyễn Văn Ngọc, Phó tổng giám đốc Công ty Phước Hòa cho biết, nhờ ứng dụng quy trình xác định độ nhớt nhanh đã tăng được sản lượng cao su SVR CV lên nhiều lần đã mang về lợi nhuận cho công ty trên 5 tỷ đồng/năm. Bên cạnh đó còn giảm nhiều chi phí khác như chi phí quản lý, xe vận chuyển...
Sẵn sàng chia sẻ

Kỹ sư Cương chia sẻ, ứng dụng kỹ thuật này đã tạo nên lợi thế cạnh tranh của công ty. Tuy nhiên, vì ích lợi chung của tất cả người trồng, chế biến cao su, Phước Hòa đã chia sẻ kỹ thuật này cho nhiều đơn vị khác. Đến nay có hơn 10 công ty, xí nghiệp chế biến cao su ở: Bình Phước, Tây Ninh, Đồng Nai, Kon Tum… đến học hỏi và áp dụng.
Ông Nguyễn Quang Hải, Phó giám đốc Công ty TNHH Hưng Thịnh, tại tỉnh Tây Ninh, một đơn vị chuyên chế biến mủ cao su cho biết, trước đây đơn vị ông chỉ chế biến mủ SVR 3L. Khi biết kỹ thuật xác định nhanh độ nhớt của kỹ sư Cương, công ty Hưng Thịnh đã đến học hỏi và được Công ty Phước Hòa hỗ trợ nhiệt tình. Hơn một năm nay, Hưng Thịnh đã tăng sản lượng mủ có chất lượng SVR CV mà không phụ thuộc vào vùng nguyên liệu.
“Kỹ thuật này đơn giản... một công nhân bình thường sau khi được huấn luyện cũng dễ dàng làm được. Về máy móc, thiết bị đầu tư cho kỹ thuật mới xác định độ nhớt cao su, chỉ khoảng 3 triệu đồng”, ông Trần Đức, Phó phòng quản lý chất lượng Công ty TNHH một thành viên cao su Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước, nói.
Trước đây việc sản xuất cao su có chất lượng SVR CV của Công ty cao su Lộc Ninh bị “rớt” rất nhiều, nhưng từ ngày áp dụng kỹ thuật, ứng dụng vi sóng để xác định độ nhớt đầu vào sản phẩm cao su có chất lượng SVR CV đạt trên 99%.
|