Phát triển chăn nuôi theo hướng xanh, tuần hoàn mang tầm chiến lược lâu dài nhằm giảm thiểu áp lực môi trường, nâng cao giá trị kinh tế, tăng thu nhập cho người chăn nuôi. Trong đó, kinh tế tuần hoàn đã được quy định rõ theo Khoản 1, Điều 142 Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) năm 2020, theo đó “Kinh tế tuần hoàn là mô hình kinh tế trong đó các hoạt động thiết kế, sản xuất, tiêu dùng và dịch vụ nhằm giảm khai thác nguyên liệu, vật liệu, kéo dài vòng đời sản phẩm, hạn chế chất thải phát sinh và giảm thiểu tác động xấu đến môi trường”. Các mô hình nông nghiệp tái sử dụng phụ phẩm hoặc các sản phẩm đầu ra của quy trình sản xuất này được làm đầu vào cho quy trình sản xuất khác đang trở thành xu hướng phát triển bền vững, đặc biệt là các mô hình tái sử dụng phụ phẩm chăn nuôi có nguồn gốc hữu cơ cho cây trồng. Phụ phẩm chăn nuôi chủ yếu là các sản phẩm phụ đặc trưng được tạo ra từ hoạt động chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm như chất độn chuồng đã sử dụng, thức ăn thừa, xác vật nuôi chết không phơi nhiễm mầm bệnh và độc tố có thể được tận dụng hoặc sử dụng lại cho các mục đích khác trong các nhóm tiểu ngành nông nghiệp. Về khía cạnh kinh tế và môi trường, mô hình chăn nuôi - trồng trọt tuần hoàn vừa tăng doanh thu cho cơ sở chăn nuôi và cải thiện thu nhập cho người nông dân vừa hạn chế tổn hại cho môi trường trong hiện tại và tương lai.
|
Các mô hình chăn nuôi - trồng trọt tuần hoàn được triển khai ở một số địa phương trên cả nước đem lại hiệu quả tích cực về kinh tế - xã hội - môi trường như mô hình sản xuất phân hữu cơ từ chất thải nông nghiệp sử dụng các loại phụ phẩm từ trồng trọt và chăn nuôi tại Đồng Nai, mô hình sản xuất nông nghiệp tổng hợp (bò, giun quế, cỏ, ngô, gia cầm, gia súc, cá), mô hình chăn nuôi an toàn sinh học 4F (Farm – Food – Feed – Fertilizer) tại Thừa Thiên Huế. Tại khu vực phía Bắc, một số mô hình nông nghiệp tuần hoàn điển hình sử dụng phụ phẩm hữu cơ từ chăn nuôi như mô hình sản xuất phân hữu cơ tại Hợp tác xã Nông nghiệp và Dịch vụ Môi trường BAVIFA. Mô hình này đã tận dụng nguồn chính là phụ phẩm từ trồng trọt và chăn nuôi theo định hướng kinh tế tuần hoàn và mở ra hướng đi mới cho hoạt động sản xuất nông nghiệp tại huyện Ba Vì, trong đó tận dụng khoảng 24% lượng phụ phẩm trồng trọt và 30,25% lượng phụ phẩm chăn nuôi trên địa bàn huyện. Kết quả nghiên cứu tại xã Minh Châu, Ba Vì cho thấy hoạt động chăn nuôi đóng góp tới 114,2 tấn chất thải (phân) mỗi ngày. Phân thải từ gia súc chủ yếu được sử dụng cho mục đích tạo khí sinh học (35% tổng lượng phân), bón trực tiếp cho cây trồng (61,06%) và thức ăn cho trùn quế (3,06%).
Mặc dù khái niệm về kinh tế tuần hoàn được đưa ra trong Luật Bảo vệ môi trường 2020 nhưng các văn bản hướng dẫn, đặc biệt đối với chất thải rắn còn chưa đầy đủ. Trong đó, các chính sách về thu gom xử lý phụ phẩm hữu cơ trong chăn nuôi còn chưa rõ ràng; chưa có văn bản quy định, hướng dẫn cụ thể dẫn tới việc triển khai các mô hình tuần hoàn, trong thực tế gặp rất nhiều vướng mắc và rào cản, đặc biệt là rào cản về công nghệ xử lý. Bên cạnh đó, nhiều mô hình chăn nuôi tuần hoàn hiện nay chủ yếu mang tính tự phát hoặc ở quy mô rất nhỏ và mang lại hiệu quả chưa cao. Do đó, nghiên cứu này tổng hợp; phân tích đánh giá; làm rõ cơ sở khoa học và thực tiễn về thu gom, công nghệ xử lý, tận dụng chất thải rắn chăn nuôi hữu cơ cho cây trồng theo hướng nông nghiệp tuần hoàn.
1. Phương pháp nghiên cứu
1.1. Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp
Nghiên cứu này sử dụng phương pháp thu thập số liệu thứ cấp từ các công trình công bố quốc tế và trong nước. Các từ khóa được sử dụng để tìm kiếm gồm “kinh tế tuần hoàn”, “nông nghiệp tuần hoàn”, “tuần hoàn chất thải”, “chất thải rắn chăn nuôi”. Trên cơ sở đó, các khái niệm thuộc kinh tế tuần hoàn và nông nghiệp tuần hoàn được phân tích. Nghiên cứu này đánh giá những luận điểm khoa học trong chất thải chăn nuôi để hướng tới một sự quay vòng, tuần hoàn chất thải trong hệ thống sản xuất nông nghiệp chăn nuôi - trồng trọt.
1.2. Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp
Để đánh giá tiềm năng áp dụng kinh tế tuần hoàn, nông nghiệp tuần hoàn, nghiên cứu này sử dụng tiếp cận kiểm toán chất thải tập trung đối với 1 cơ sở chăn nuôi để có thông tin chung và phỏng vấn trực tiếp tại 60 cơ sở chăn nuôi trên địa bàn huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Ninh. Các thông tin phỏng vấn bao gồm chất thải rắn thông thường, nước thải, chất thải nguy hại và chất thải khác (xác vật nuôi, vỏ bao bì, chai lọ hoá chất…) ở các quy mô lớn, vừa và nhỏ. Đánh giá hiệu quả của các phương pháp đang được áp dụng và tiềm năng tuần hoàn vật chất có ích từ chất thải chăn nuôi. Việc tiếp cận các cơ sở chăn nuôi lợn đáp ứng yêu cầu về an toàn sinh học cho cơ sở chăn nuôi tại điểm nghiên cứu.
2. Kết luận
Tiềm năng sử dụng chất thải hữu cơ trong chăn nuôi cho cây trồng là rất lớn đặc biệt là chất thải rắn hữu cơ từ hoạt động chăn nuôi lợn, do hoạt động chăn nuôi lợn chiếm tới hơn 70% số lượng đàn gia súc cả nước ta và hàm lượng dinh dưỡng giàu hữu cơ. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, các mô hình NNTH không chỉ dừng lại ở việc tái sử dụng chất thải hoặc coi chúng là tài nguyên, mà còn đòi hỏi sự kết nối và tính toán trong các hoạt động kinh tế, để tạo ra các chu trình tuần hoàn trong nền kinh tế tuần hoàn có thể duy trì và sử dụng vật chất trong thời gian dài nhất có thể, đồng thời khôi phục và tái tạo sản phẩm và tài nguyên ở cuối mỗi chu kỳ sản xuất hoặc tiêu dùng. Hiện nay, cơ sở chăn nuôi và hộ gia đình vẫn còn rất lúng túng trong khâu tái sử dụng chất thải chăn nuôi. Để có thể tạo ra một mô hình chăn nuôi - trồng trọt hoàn chỉnh và đem lại hiệu quả về kinh tế - xã hội và môi trường cao, cần sự phối hợp chặt chẽ giữa công tác quản lý của nhà nước đối với chất thải chăn nuôi và các công nghệ xử lý góp phần biến chất thải thành tài nguyên có giá trị. |