Sinh vật [ Đăng ngày (22/02/2025) ]
Đánh giá khả năng tiết chitinase ngoại bào và đối kháng nấm Pyricularia oryzae của vi khuẩn và xạ khuẩn phân lập từ đất vùng rễ lúa ở tỉnh Kiên Giang
Nấm Pyricularia oryzae là một trong những đối tượng gây bệnh đạo ôn ở cây lúa. Cơ chế lây nhiễm là xâm nhiễm trực tiếp qua màng sinh chất, tiết ra độc tố tế bào và hình thành tế bào truyền nhiễm chuyên gây bệnh cho cây lúa ở một số loài (Muni & Nadarajah, 2014). Vì vậy, chế phẩm chứa các hoạt chất sinh học từ vi sinh vật có khả năng kháng nấm gây bệnh và không gây hại cho con người với môi trường, là biện pháp đầy tiềm năng để quản lý nấm gây bệnh trên lúa. Thuộc nhóm vi sinh vật có lợi, vi khuẩn và xạ khuẩn vùng rễ được biết đến là nhóm ứng dụng khả năng đối kháng trong việc phòng trị bệnh do nấm gây ra. Nghiên cứu này đã sàng lọc được 11 chủng xạ khuẩn và 10 chủng vi khuẩn có hoạt tính chitinase cao, từ 09 mẫu đất vùng rễ lúa tại tỉnh Kiên Giang.

Ảnh minh họa: Internet

Cây lúa gạo (Oryza sativa L.) thường được trồng ở khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) và là một trong những cây trồng cung cấp dinh dưỡng quan trọng của nước ta. Trong thời gian gần đây, bệnh đạo ôn trên cây lúa đã trở nên phức tạp hơn tại tỉnh Kiên Giang, ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng lúa, gạo (P. T. T. Nguyen, 2016; Vu & ctg., 2020).  Nấm Pyricularia oryzae Cav. gây bệnh đạo ôn là trong những dịch hại nghiêm trọng nhất trên cây lúa ở ĐBSCL (Nguyen & Nguyen, 2016). Bệnh đạo ôn trên cây lúa (Pyricularia oryzae) thường xuất hiện trên đốt thân, lá, cổ bông và gây hại ở các quá trình sinh trưởng của cây lúa (Muni& Nadarajah, 2014; Nguyen & Nguyen, 2016). Nhiều giống lúa cải tiến có chứa gen kháng bệnh được đưa vào canh tác, nhưng hầu như khả năng kháng bệnh của các giống lúa này chỉ kéo dài hơn 03 năm, bởi vì các nấm gây bệnh đạo ôn dễ phát sinh loài có độc tính mới (Fukata, Erbon, &Kobayashi, 2007). Do đó, một hướng tiếp cận khác là chế phẩm chứa hoạt chất sinh học từ các vi sinh vật có tiềm năng kiểm soát dịch bệnh và vừa thân thiện hơn với con người, môi trường. Trong nhóm vi sinh vật có ích được ứng dụng trong quản lý dịch hại trên cây trồng, vi khuẩn và xạ khuẩn vùng rễ được biết đến như nhóm vi sinh vật có tiềm năng ức chế và phòng trừ một số bệnh hại do nấm gây ra (Nguyen, Nguyen, & Nguyen, 2014; Nguyen & Nguyen, 2016). Cơ chế đối kháng như: tiết enzymes chitinases ly giải vách tế bào nấm bệnh, hình thành siderophores, sản xuất kháng sinh có phổ tác dụng rộng, cạnh tranh nguồn dưỡng chất, không gian sinh sống với các tác nhân gây bệnh. Ngoài ra, vi khuẩn và xạ khuẩn còn có khả năng thúc đẩy tính kháng bệnh của cây trồng (Jog, Nareshkumar, & Rajkumar, 2012; Nguyen& ctg., 2014). Các loại thuốc sinh học được hình thành và phát triển dựa trên các cơ chế này. Đặc biệt, việc phát triển thuốc trừ nấm có chứa các hoạt tính sinh học cao từ quá trình nhân nuôi vi sinh vật đối kháng để phòng trừ bệnh ở phần trên mặt đất là chiến lược đúng đắn. Do đó, hướng nghiên cứu này được thực hiện nhằm mục tiêu (i) lựa chọn các chủng vi sinh vật đối kháng trong đất trồng lúa và (ii) đánh giá sự tương quan giữa khả năng tiết enzyme chitinase ngoại bào và đối kháng nấm bệnh của các chủng vi sinh vật này. Các thí nghiệm được thực hiện nhằm mục đích phát triển thuốc sinh học dạng lỏng chứa enzyme chitinase ngoại bào và các hợp chất khác để phòng trừ nấm Pyricularia oryzae, làm giảm đi ô nhiễm môi trường do các loại hóa chất nông nghiệp khó phân hủy, có hoạt tính tương tự.
Từ 09 mẫu đất vùng rễ trồng lúa tại tỉnh Kiên Giang và thí nghiệm sàng lọc trong phòng thí nghiệm, chủng vi khuẩn B.KG4.1 và chủng xạ khuẩn S.KG1.1 có hiệu suất đối kháng nấm Pyricularia Oryzae vượt trội hơn các chủng còn lại (tỷ lệ đối kháng nấm đạt lần lượt là 90.9% và 87.41% ở ngày thứ 15). Đặc biệt, tiềm năng đối kháng nấm bệnh của các chủng vi khuẩn trong bài báo này hầu hết tỷ lệ thuận với đường kính vòng phân giải chitin trên môi trường nhân tạo. Trong khi đó, không tìm thấy mối tương quan nào giữa tiềm năng đối kháng nấm bệnh và enzyme chitinase ngoại bào đối với xạ khuẩn. Kết quả định danh loài bằng kỹ thuật sinh học phân tử cho thấy, chủng xạ khuẩn S.KG1.1 có mức độ tương đồng 99.78% với trình tự vùng gen 16S-rRNA của chủng Streptomyces carpinensisNR-041157.1 và chủng vi khuẩn B.KG4.1 thuộc Bacillus amyloliquefaciens group với độ tương đồng 100%. Trước khi ứng dụng ngoài đồng ruộng của chủng B.KG4.1 và S.KG1.1, cần phải đánh giá thêm vềcác yếu tố ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng, thời gian nhân nuôi và khả năng phòng trừ nấm Pyricularia Oryzaetrong điều kiện nhà kính.

nnttien
Theo Tạp chí khoa học Đại học Mở TP.HCM, Số 19 (1)/2024
In bài viết  
Bookmark
Ý kiến của bạn

Đánh giá một số điều kiện tối ưu trong quá trình chiết xuất cao chiết từ lá bơ Booth thu tại Đắk Lắk
Cây bơ là một trong những loại cây nông nghiệp mang lại giá trị kinh tế cao và cây bơ có nguồn gốc từ Mexico và châu Mỹ. Trong quả bơ chứa nhiều các hợp chất, vitamin có lợi cho sức khỏe, còn trong lá bơ chứa nhiều các hợp chất flavonoid và phenol có khả năng kháng lại vi khuẩn Helicobacter pylori gây bệnh viêm loét dạ dày. Đắk Lắk là tỉnh có diện tích trồng cây bơ khá lớn và việc tận dụng được nguồn nguyên liệu lá bơ này sẽ góp phần nâng cao giá trị kinh tế của cây bơ. Nghiên cứu này thực hiện đánh giá một số điều kiện tối ưu trong quá trình chiết xuất cao chiết từ lá bơ Booth lấy tại Đắk Lắk.






© Copyright 2020 Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ - Sở Khoa học & Công nghệ TP. Cần Thơ
Địa chỉ: 118/3 Trần Phú - Phường Cái Khế - Quận Ninh Kiều - thành phố Cần Thơ
Giấy phép số: 05/ GP-TTĐT, do Sở Thông tin và Truyền Thông thành phố Cần Thơ cấp ngày 23/5/2017
Trưởng Ban biên tập: Ông Vũ Minh Hải - Giám Đốc Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ - Sở Khoa học & Công nghệ TP. Cần Thơ
Ghi rõ nguồn www.trithuckhoahoc.vn khi bạn sử dụng lại thông tin từ website này
-->