Trai tai tượng vảy (Tridacna squamosa Lamack, 1819) là một trong những loài nhuyễn thể có giá trị kinh tế cao ở Việt Nam và có nhu cầu xuất khẩu lớn. Không những thịt của chúng có giá trị dinh dưỡng cao mà vỏ còn được sử dụng để làm hàng thủ công. Chúng dinh dưỡng cộng sinh với một số loài tảo nên vỏ có màu sắc đa dạng và sặc sở, được người tiêu dùng ưa chuộng. Trong những năm gần đây, nguồn lợi trai tai tượng đang bị khai thác quá mức nên đã bị giảm sút nhanh chóng, có nguy cơ cạn kiệt. Một số loài đã được liệt kê vào danh mục Sách Đỏ Việt Nam như loài T.gigas. Thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến nguồn lợi trai tai tượng vảy (T. squa- mosa), phân bố nguồn lợi, bước đầu nghiên cứu sản xuất giống và đã triển khai một số hoạt động liên quan đến phục hồi, tái tạo nguồn lợi tự nhiên ở nhiều nơi. Việt Nam đã có một số công trình “nghiên cứu liên quan đến nguồn lợi của công tác phục hồi, phát triển nguồn lợi trai tai tượng (họ Tridacnidae) ở biển Việt Nam” của viện nghiên cứu Hải Sản. Tuy nhiên, hầu như các công trình nghiên cứu chưa được thực hiện đầy đủ và đồng bộ. Các nghiên cứu liên quan đến trai tai tượng vảy như đặc điểm sinh học, sinh thái, phân bố, sản xuất giống nhân tạo còn rất ít, đặc biệt, việc sản xuất giống gặp không ít khó khăn với tỷ lệ sống thấp trong giai đoạn ấu trùng và ở giai đoạn xuống đáy, chất lượng con giống không ổn định. Trong giai đoạn xuống đáy, ấu trùng rất dễ nhạy cảm với môi trường. Bất kỳ một sự biến động về môi trường nào đều dẫn đến ấu trùng không thể xuống đáy và chết hàng loạt.
Đối tượng nghiên cứu: Trai tai tượng vảy Tridacna squamosa Lamack, 1819 giai đoạn chuẩn bị xuống đáy (Pediveliger).
![](/Portals/0/HinhBanTin/Suong/tai%20tuong.jpg)
Tridacna squamosa Lamack, 1819
Một thí nghiệm 26 ngày đã được thực hiện nhằm tìm ra loại chất đáy phù hợp nhất cho ấu trùng trai tai tượng vảy Tridacna squamosa từ giai đoạn ấu trùng bò lê đến con giống cấp 1. Thí nghiệm được lặp lại 3 lần với 4 nghiệm thức chất đáy khác nhau (lưới 200 µm, đá san hô chết, cát, đáy bể composit) trong các bể 1m khối ở độ mặn 30‰. Mật độ ấu trùng là 5 con/ml. Thức ăn là tảo đơn bào Isochrysis galbana, Chaetoceros sp, tảo cộng sinh. Mật độ cho ăn từ 6.000 đến 9.000 tế bào/ml. Kết quả cho thấy trong 4 loại chất đáy trên thì chất đáy đá san hô chết cho sinh trưởng về chiều cao, tốc độ sinh trưởng tuyệt đối về chiều cao, tỷ lệ hạ đáy và tỷ lệ sống của ấu trùng trai tai tượng vảy cao nhất. Chiều cao ấu trùng trai sau 26 ngày nuôi là 1020,8 µm, tốc độ sinh trưởng tuyệt đối theo chiều cao đạt 34,63 µm/ngày, tỷ lệ hạ đáy là 55,2%, tỷ lệ sống là 42,8%. |