Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đởi với chiều dài bò biển hơn 3.260km, trải dài trên nhiều vĩ độ và diện tích mặt biển rộng trên 1 triệu km2 với các đặc trưng khu hệ khác nhau. Những nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào các loài rong nâu hoặc những loài rong đỏ phổ biến, với sô' lượng loài được nghiên cứu còn hạn chê' so với tổng sô' loài rong biển đâ được định danh, trong khi đó rong đỏ được chứng minh là nguồn nguyên liệu tiềm năng để thu nhận các chất có hoạt tính sinh học còn ít được đề cập đến. Một sô' nghiên cứu gần đây cho thấy, các loài rong đỏ thuộc họ rong vú bò (Galaxauraceae) là nguồn nguyên liệu tiềm năng đê thu nhận các chất có hoạt tính sinh học như kháng tê bào ung thư, kháng viêm, ức chê enzyme α-glucosidase... góp phần phát triển các sản phẩm thực phẩm chức năng, y dược, mỹ phẩm phục vụ con người (Tran Thi Van Anh & cs., 2021). Do vậy, việc nghiên cứu về họ rong biển này có ý nghĩa lổn về khoa học và đời sống.
Đến nay trên thê giới, họ rong vú bò đã phát hiện có 60 loài thuộc 4 chi (Galaxaura, Dichotomaria, Tricleocarpa và Actinotrichia) (Guiry, 2024). Tại Việt Nam, Dawson (1954) đã ghi nhận 1 loài Actinotrichia fragilis và 4 loài thuộc chi Galaxaura (G. vietnamensis, G. fastigiata, G. filamentosa và G. fasciculata), trong đó loài G. vietnamensis là phát hiện loài mới cho khoa học. Nghiên cứu của Phạm Hoàng Hộ (1969), ngoài 5 loài đã được xác nhận theo Dawson (1954), tác giả còn ghi nhận bổ sung 5 loài khác thuộc chi Gaỉaxaura là G. clavigera, G. glabriuscula, G. obtusata, G. oblongata và G. rudis. Đối với các loài rong biển thuộc họ rong vú bò phân bô ở khu vực phía Bắc, Nguyễn Hữu Dinh & cs. (1993) chỉ ghi nhận có 1 loài G. fastigiata. Năm 2005, Isao & cs. (2005) ghi nhận 4 loài, trong đó có 2 loài mới cho Việt Nam là Galaxaura lapidescens và Tricleocarpa cylindrica. Tổng hợp các công trình nghiên cứu về họ rong vú bò trước năm 2013, sau khi chỉnh lý theo algaebase.org,
Nguyen Van Tu & cs. (2013) đã thông kê được 9 loài thuộc họ rong vú bò gồm 1 loài thuộc chi Actinotrichia, 3 loài thuộc chi Dichotomaria, 3 loài thuộc chi Galaxaura và 2 loài thuộc chi Tricleocarpa. Đến năm 2016, Phang & cs. (2016) ghi nhận bổ sung loài Gaỉaxaura fastigiata (sau chỉnh lý thành Tricleocarpa fastigiata) và Scinaia boergesenii (sau được sắp xếp lại vào họ Scinaiaceae).
Đến năm 2023, Nguyen Manh Linh & cs. (2023) đã cập nhật và chỉnh lý theo algaebase.org, ghi nhận có 10 loài rong biển thuộc họ rong vú bò phân bô' ở vùng biển nước ta gồm: Chi Dichotomaria có 3 loài (D. marginata, D. obtusata và D. papillata); chi Galaxaura có 3 loài (Galaxaura divaricata, G. filamentosa và G. rugosa); chi Tricleocarpa có 3 loài (T. cylindrica, T. fastigiata và T. fragilis) và chi Actinotrichia có 1 loài (A. fragilis'). Tuy nhiên các nghiên cứu này mới chỉ tập trung thống kê về thành phần loài mà chưa có nhiều những nghiên cứu công bô', mô tả chi tiết về đặc điểm hình thái, sinh thái và các hình ảnh minh chứng. Chính vì lẽ đó, mục tiêu của nghiên cứu này nhằm mô tả đặc điếm hình thái của 10 loài rong biển thuộc họ rong vú bò phân bô' tại vùng biển Việt Nam.
Mục tiêu của nghiên cứu nhằm mô tả đặc điểm hình thái các loài rong biển thuộc họ rong vú bò Galaxauraceae (Nemaliales, Rhodophyta) phân bố tại Việt Nam. Bằng phương pháp phân tích hình thái ngoài và cấu trúc tế bào dưới kính hiển vi, kết quả nghiên cứu đã mô tả đặc điểm hình thái 10 loài rong biển thuộc họ rong vú bò gồm: Actinotrichia fragilis, Dichotomaria marginata, D. obtusata, D. papillata, Galaxaura divaricata, G. filamentosa, G. rugosa, Tricleocarpa cylindrica, T. fastigiata và T. fragilis phân bố tại vùng biển Việt Nam. Các nội dung chính được mô tả gồm đặc điểm hình thái, sinh thái, hình ảnh (dạng sống tự nhiên, mẫu vật tươi, mẫu vật khô, chi tiết nhánh, tế bào). Kết quả bài viết cung cấp thông tin cho việc định loại các loài rong biển thuộc họ rong vú bò, đồng thời là cơ sở khoa học cho các nghiên cứu về sinh thái học, khai thác tiềm năng hoạt chất sinh học và phát triển nguồn gen các loài rong biển này trong tương lai.
|