Nông - Lâm - Ngư nghiệp [ Đăng ngày (27/02/2025) ]
Các yếu tố nguy cơ và mùa vụ xuất hiện EHP và bệnh phân trắng trên tôm thẻ chân trắng (penaeus vannamei) ở Việt Nam
Nghiên cứu: “Các yếu tố nguy cơ và mùa vụ xuất hiện EHP và bệnh phân trắng trên tôm thẻ chân trắng (penaeus vannamei) ở Việt Nam” do nhóm tác giả: Nguyễn Thị Ngọc Tĩnh, Lê Hồng Phước – Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II; Đặng Thị Hoàng oanh – Đại học Cần Thơ; Trương Đình Hoài – Học viện nông nghiệp Việt Nam thực hiện.

Bệnh phân trắng đã xuất hiện ở các trang trại nuôi tôm sú và tôm thẻ chân trắng ở châu Á và gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành nuôi tôm (Thitamadee & ctv., 2016). WFD được công bố do nhiều tác nhân gây ra, làm tôm chậm lớn, phân đàn, giảm ăn và có trường hợp chết rải rác. WFD thường xuất hiện ở tôm có độ tuổi 30 - 40 ngày sau khi thả nuôi và có thể kèm theo hiện tượng chết của tôm (Sriurairatana & ctv., 2014, Kumar & ctv., 2022). Các dấu hiệu bên ngoài của tôm bị bệnh bao gồm ruột trắng hoặc nâu vàng và vỏ đầu mềm (Somboon & ctv., 2012; Sriurairatana & ctv., 2014; Tang & ctv., 2016; Hou & ctv., 2018, Kumar & ctv., 2022). Theo nghiên cứu trước đây cho thấy bệnh phân trắng trên tôm nuôi có nhiều tác nhân gây ra bao gồm HPV (36%), nhóm Vibrio (80%) và nhóm tảo lam (45,4%) (Nguyn Khc Lm v Đ Th Ha, 2007). Một nghiên cứu khác cho thấy có sự xuất hiện của trùng 2 tế bào dạng giun (vermiform) trong gan và ruột của tôm bị WFD, làm cho tôm giảm ăn và chậm lớn (Sriurairatana & ctv., 2014).

Bệnh EHP gây ra bởi ký sinh trùng Micros poridian, là ký sinh trùng nội bào bắt buộc gây bệnh trên các loài động vật. Chúng sống trong tế bào chất và ký sinh trong nhân tế bào ký chủ ở dạng bào tử. Bào tử trùng gây bệnh trên tôm phổ biến nhất là Agmasoma, Ameson, Pleistophora và EHP (Bùi Quang Tề, 2006). Bệnh EHP không gây chết tôm nhưng lại ảnh hưởng lớn đến sản lượng và năng suất thu hoạch (Lightner, 1996). Tôm bị bệnh thường có trọng lượng từ 7 - 12 g/con hoặc tuổi tôm từ 50 - 70 ngày sau khi thả nuôi (Somboon & ctv., 2012). EHP được phát hiện đầu tiên trong gan tụy của tôm nuôi ở Úc (Chayaburakul & ctv., 2004) từ năm 2001. Năm 2009, EHP được báo cáo chính thức trên tôm sú chậm lớn ở Thái Lan (Tourtip & ctv., 2009). Năm 2010, EHP có liên quan đến bệnh phân trắng ở tôm sú và tôm thẻ nuôi tại Việt Nam (Ha & ctv., 2010) và nhiễm trong gan tụy của tôm thẻ nuôi thương phẩm tại Ninh Thuận và gây bệnh chậm lớn (Nguyễn Thị Thùy Giang & ctv., 2015). Năm 2016, EHP được báo cáo có liên quan đến bệnh phân trắng ở tôm sú và tôm thẻ tại Ấn Độ (Rajendran & ctv., 2016). Từ đó, EHP được xem là tác nhân chính của bệnh nhiễm vi bào tử ở gan tuỵ tôm nuôi ở Đông Nam Á (Thitamadee & ctv., 2016). Theo NACA (2015), không có dấu hiệu cụ thể nào để phân biệt giữa tôm bị nhiễm hoặc không nhiễm EHP. Sự nhiễm bệnh có thể được xác định dựa vào sự bất thường của tôm nuôi như là tăng trưởng chậm và dựa vào kiểm tra bằng phương pháp sinh học phân tử. Nhiều nghiên cứu trước đây đã xác định có mối quan hệ giữa WFD và nhiễm EHP, Gregarines và Vibrio (Somboon & ctv., 2012; Sriurairatana & ctv., 2014; Tang & ctv., 2016; Supono & ctv., 2019). Tuy nhiên, cũng có nghiên cứu cho rằng không có mối liên quan giữa EHP với WFD (Tangprasittipap & ctv., 2013). Nghiên cứu gần đây cho rằng tôm bị bệnh phân trắng có nhiều nguy cơ nhiễm EHP cao hơn tôm bình thường (Lê Hồng Phước & ctv., 2020). Ngoài ra, các nghiên cứu của Aranguren Caro & ctv. (2021) và Kumar & ctv. (2022) đã báo cáo rằng bệnh phân trắng trên tôm thí nghiệm có liên quan đến EHP và Vibrio parahaemolyticus

Các nghin cu dch t v bnh trn thy sn trước đây thng xây dựng m hnh hi quy logistic đa bin (Multivariable logistic regression model) để xác định các yếu tố nguy cơ liên quan và dự báo xác suất xảy ra bệnh. Một số nghiên cứu đã áp dụng mô hình này bao gồm xác định cc yu t nguy c gây ra bnh xut huyt trn c trm c trong ao nui Trung Quc (Yang & ctv., 2013); nghin cu hi chng cht sm (EMS/AHPND) ti cc ao nui tm s Thi Lan (Boonyawiwat & ctv., 2016); và nghiên cứu mt s yu t nguy c liên quan đn bnh trng đui, thi đui trn c tra ging Pangasianodon hypophthalmus (Nguyễn Ngọc Du & ctv., 2022). Nghin cu ny nhm xc đnh mối liên hệ giữa WFD, bệnh EHP và các tác nhân sinh học và phi sinh học có khả năng ảnh hưởng đến bệnh trên tôm nui nước lợ ở Việt Nam, t đ xác định các yếu tố nguy cơ liên quan, cảnh báo mùa vụ xuất hiện bệnh và dự báo xác suất xảy ra hai bệnh này.

Nuôi tôm là một trong những ngành sản xuất có tiềm năng xuất khẩu lớn của Việt Nam trong nhiều năm qua. Tuy nhiên, dịch bệnh vẫn là một thách thức làm ảnh hưởng đến sản lượng tôm và năng suất thu hoạch cho vụ nuôi. Trong đó, bệnh Enterocytozoon hepatopanaei (EHP) và bệnh phân trắng (WFD) được xem là những bệnh nguy hiểm trên tôm nuôi nước lợ và gây thiệt hại kinh tế cho ngành nuôi trồng thủy sản. Nghiên cứu này nhằm xác định các yếu tố nguy cơ liên quan đến bệnh EHP, WFD trên tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei) và mùa vụ xuất hiện của 2 bệnh này. Cách tiếp cận dịch tễ học được thực hiện với 2 phương pháp: (1) Nghiên cứu cắt ngang và xây dựng mô hình hồi quy logistic đa biến để xác định các yếu tố nguy cơ; và (2) Nghiên cứu tiến cứu và mô hình hồi quy logistic đơn biến để xác định yếu tố mùa vụ. Kết quả phân tích 178 mẫu điều tra cho thấy bệnh EHP gồm 7 yếu tố nguy cơ có sự khác biệt ý nghĩa thống kê (OR>1 và p<0,05) đó là nước ao nhiễm EHP, giáp xác hoặc nhuyễn thể nhiễm EHP, pH >7,9; tổng số Vibrio spp. nhiễm trong gan tụy tôm >2,9 x 104 CFU/g, nhiệt độ nước ao nuôi >28,5 o C, tôm nhiễm Gregarine và tuổi tôm nuôi ≥40 ngày. Xác suất dự báo xảy ra bệnh EHP trên tôm nuôi là 97,4%. Trong khi, WFD có 2 trường hợp xảy ra như sau: (1) Có 4 yếu tố nguy cơ, bao gồm tuổi tôm ≥40 ngày, nhiệt độ nước ao >28,5 o C, tổng Vibrio spp. nhiễm trong gan tụy tôm ≥4,0 x 104 CFU/g và không diệt khuẩn nước ao định kỳ. Xác suất dự báo xảy ra bệnh là 94,9%. (2) Có 4 yếu tố nguy cơ, bao gồm tuổi tôm ≥40 ngày, nhiệt độ nước ao >28,5 o C, không diệt khuẩn nước ao định kỳ và tôm bị nhiễm EHP. Xác suất dự báo xảy ra bệnh là 94,2%. Đối với yếu tố mùa vụ, kết quả cho thấy mùa mưa là yếu tố nguy cơ đối với bệnh EHP. Nguy cơ bệnh EHP xảy ra trên tôm nuôi vào mùa mưa cao gấp 6,5 lần so với mùa khô. Trong khi, bệnh phân trắng xuất hiện không khác biệt ý nghĩa (p>0,05) giữa mùa khô và mùa mưa.

ntdinh
Theo Tạp chí nghề cá sông Cửu Long, số 24/2024
In bài viết  
Bookmark
Ý kiến của bạn

Video  
 

Video

 



© Copyright 2020 Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ - Sở Khoa học & Công nghệ TP. Cần Thơ
Địa chỉ: 118/3 Trần Phú - Phường Cái Khế - Quận Ninh Kiều - thành phố Cần Thơ
Giấy phép số: 05/ GP-TTĐT, do Sở Thông tin và Truyền Thông thành phố Cần Thơ cấp ngày 23/5/2017
Trưởng Ban biên tập: Ông Vũ Minh Hải - Giám Đốc Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ - Sở Khoa học & Công nghệ TP. Cần Thơ
Ghi rõ nguồn www.trithuckhoahoc.vn khi bạn sử dụng lại thông tin từ website này
-->