Nghiên cứu
[ Đăng ngày (03/05/2024) ]
|
Khả năng kháng kháng sinh của vi khuẩn Esherichia Coli phân lập từ thịt (lợn, gà) tại chợ bán lẻ thuộc Huyện Gia Lâm, Hà Nội
|
|
Nghiên cứu do nhóm tác giả gồm Hoàng Minh Đức, Cam Thị Thu Hà, Phạm Hồng Ngân, Hoàng Minh Sơn, Lê Văn Hùng, Trần Văn Nên, Vũ Thị Thu Trà (Khoa Thú y, Học viện Nông nghiệp Việt Nam), Vũ Văn Hoạt và Lê Văn Tùng (Chi cục Chăn nuôi và Thú y Hải Dương) thực hiện từ tháng 1 đến tháng 10 năm 2021.
|
Hình minh họa. Nguồn: Internet
Trong những năm gần đây, số chủng E. coli kháng kháng sinh phân lập từ vật nuôi, thực phẩm và người ngày càng tăng, đặc biệt là các chủng kháng kháng sinh β-lactam thế hệ mới như cephalosporin thế hệ thứ ba (ceftazidime và cefotaxime) và thứ 4 (cefepime), dòng kháng sinh được WHO xếp vào danh mục các loại kháng sinh cực kỳ quan trọng, thường được sử dụng làm thuốc điều trị nhiễm trùng do E. coli và các loại vi khuẩn khác. Đây thực sự là mối nguy đối với sức khoẻ cộng đồng bởi sự xuất hiện ngày càng nhiều các chủng vi khuẩn này sẽ gây ra rất nhiều khó khăn trong việc điều trị nhiễm khuẩn ở người và vật nuôi. Một trong những cơ chế kháng kháng sinh quan trọng nhất của nhóm vi khuẩn này dựa vào khả năng sản sinh các men β-lactamases hoạt phổ rộng (ESBLs). Hiện tượng kháng kháng sinh này xuất hiện là điều không tránh khỏi bởi nhóm β-lactam là nhóm kháng sinh được sử dụng rộng rãi nhất trong điều trị nhiễm khuẩn ở cả người và vật nuôi. Men ESBLs giúp vi khuẩn có khả năng kháng nhiều kháng sinh thuộc nhóm β-lactam bao gồm penicillin, cephalosporins thế hệ 2, 3, 4 và monobactams (aztreonam). Các gen mã hoá các β-lactamasesnày có thể nằm trên nhiễm sắc thể của vi khuẩn, trên plasmid, hoặc trên transposon.Hiện tại, gen mã hoá ESBL phổ biến nhất liên quan tới kháng kháng sinh trên vật nuôi là blaCTX-M, blaTEM và blaSHV. Các gen này thường được phát hiện ở vi khuẩn E. coli và có thể dễ dàng truyền từ chủng vi khuẩn này sang chủng khác và thậm chí cho các loài vi khuẩn khác nhau. Nhiều nghiên cứu được công bố gần đây cho thấy các gen mã hoá ESBLs thường được truyền từ vật nuôi sang người thông qua chuỗi thức ăn. Điều tra về khả năng kháng kháng sinh của vi khuẩn, đặc biệt là vi khuẩn chỉ điểm hội sinh E. coli là một bước hết sức quan trọng để nắm được tình trạng và các kiểu kháng kháng sinh của vi khuẩn từ đó có thể thiết lập được các biện pháp và chương trình hành động hiệu quả để làm ngăn ngừa và kiểm soát sự xuất hiện của vi khuẩn kháng kháng sinh.
Nghiên cứu được tiến hành với mục đích xác định tỷ lệ lưu hành và tính kháng kháng sinh của vi khuẩn E. coli phân lập từ 120 mẫu (60 thịt gà và 60 thịt lợn) được thu thập từ 4 chợ bán lẻ trên địa bàn huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Kết quả nghiên cứu cho thấy các mẫu thịt gà và thịt lợn nhiễm vi khuẩn E. coli với tỷ lệ rất cao; lần lượt là 96,7% và 83,3%. Tất cả các chủng vi khuẩn phân lập được đều kháng với ít nhất 1 loại kháng sinh, tỷ lệ kháng cao với tetracycline (96,3%) và erythromycin (92,6%). Phần lớn các chủng phân lập được (91,7%) có thể kháng từ 3 loại kháng sinh trở lên. Trong đó, hơn một nửa (52,8%) số chủng E. coli có khả năng sản sinh men ESBL. Tỷ lệ phát hiện gen blaCTX-M, blaTEM và blaSHV ở các chủng E. coli có kiểu hình ESBL lần lượt là 78,9%; 35,1% và 12,3%.
|
ctngoc
Theo Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thú y, Tập 29, Số 6 (2022) |