Từ thập niên 1970, sự ra đời của SEP để theo dõi phẫu thuật vẹo cột sống đã làm giảm đáng kể tỷ lệ tổn thương tủy sống trong phẫu thuật. Năm 1992, một nghiên cứu của Hiệp hội Nghiên cứu vẹo cột sống thế giới đã kết luận rằng việc theo dõi sinh lý thần kinh tủy sống trong phẫu thuật, bao gồm cả khi đặt dụng cụ, nên được coi là "một giải pháp thay thế khả thi cho nghiệm pháp thức tỉnh trong quá trình phẫu thuật cột sống". Tỷ lệ biến chứng thần kinh đối với phẫu thuật biến dạng cột sống đã được Hiệp hội nghiên cứu vẹo cột sống quốc tế ước tính là 1%, đặc biệt tỷ lệ này tăng lên 1,87% khi phẫu thuật hai lối. Các yếu tố có thể liên quan đến nguy cơ biến chứng thần kinh cao bao gồm vẹo cột sống bẩm sinh, do rối loạn phát triển, độ nặng của đường cong (góc Cobb trên 90 độ), phẫu thuật hai lối kết hợp, phẫu thuật lại và giảm tưới máu tủy sống do hạ huyết áp, chảy máu đáng kể. Các kĩ thuật gây nguy cơ cao hơn bao gồm đục xương sửa trục lấy bỏ thân đốt sống và nắn chỉnh gù. Nhu cầu cấp thiết có một phương pháp để cảnh báo cho phẫu thuật viên cột sống về những tổn thương thần kinh có thể xảy ra trong lúc mổ. Trước khi IOM ra đời, phương pháp đánh giá chức năng tủy sống duy nhất hiện có là nghiệm pháp thức tỉnh Stagnara: các nhược điểm là cần dừng gây mê toàn thân trong phẫu thuật để quan sát được cử động của hai chân. Nghiệm pháp này cho phép đánh giá toàn vẹn chức năng đường vận động tủy sống nhưng có nhiều hạn chế: thời điểm chính xác của tổn thương thần kinh không rõ ràng và ảnh hưởng bởi các biến chứng khác như vô tình rút ống nội khí quản, thuyên tắc khí hoặc gãy cung đốt sống. Đôi khi đánh thức bệnh nhân mắc một số bệnh nền trong khi mổ có thể gây nguy hiểm. Một số bệnh nhân có thể không hợp tác với nghiệm pháp này vì tuổi tác, rào cản ngôn ngữ hoặc tình trạng tâm thần
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu mô tả loạt bệnh nhân bị gù vẹo cột sống nặng được điều trị bằng đặt dụng cụ ốc chân cung và hàn xương lối sau không sử dụng kĩ thuật đục xương sửa trục lấy bỏ thân đốt sống từ năm 2013 đến năm 2022. Tiêu chí loại trừ là bệnh nhân có đặt dụng cụ từ trước, không sử dụng IONM và dữ liệu hình ảnh học không đầy đủ. DAR mặt phẳng trán (CDAR), DAR mặt phẳng đứng dọc (S-DAR), DAR tổng (T-DAR), góc Cobb, gù, tuổi, nguyên nhân được thu thập và phân tích giữa nhóm bệnh nhân bị mất tín hiệu IONM và không.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, IOM là một phương pháp đáng tin cậy để theo dõi chức năng tủy sống và dây thần kinh ngoại biên trong quá trình phẫu thuật biến dạng cột sống. Bất thường sóng IOM có sự liên quan chặt chẽ với tuổi trước phẫu thuật và loại đường cong. Tuy nhiên, DAR lớn hơn và nguyên nhân vẹo không liên quan đến nguy cơ tổn thương thần kinh cao hơn. Việc xác định và đánh giá các yếu tố rủi ro gây mất tín hiệu IOM và phát triển các kỹ thuật mới giúp phẫu thuật viên kiểm soát tốt các biến chứng này và giảm thiểu nguy cơ tổn thương thần kinh. |