Ảnh minh họa: Internet
Rạn san hô là một hệ sinh thái với đặc trưng cao về đa dạng, năng suất sinh học và là nơi cư ngụ của rất nhiều loài sinh vật vì vậy chúng được xem là ‘rừng nhiệt đới’ của biển. Tổng diện tích rạn san hô toàn cầu ước tính nhỏ hơn 1,2% diện tích lục địa nhưng những giá trị lợi ích mà chúng đem lại cho con người thật đáng kể bao gồm giá trị về nguồn lợi và các giá trị dịch vụ sinh thái khác Chỉ với 1 km2 rạn san hô trong điều kiện tốt có thể cung cấp nguồn protein cho trên 300 người dân sống ở vùng có phân bố rạn san hô Cesar và ctv (2003) ước tính rằng, lợi ích kinh tế mà rạn san hô trên thế giới đem lại hàng năm khoảng 30 tỉ USD, trong đó nghề cá đóng góp 5,7 tỉ, bảo vệ vùng bờ 9 tỉ, du lịch, giải trí 9,6 tỉ và giá trị về đa dạng sinh học 5,5 tỉ USD. San hô chủ yếu phân bố trong các khu vực nước nông ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới trên thế giới. Diện tích bao phủ của san hô trên thế giới khoảng 300.000km2. Các rạn san hô chỉ hình thành ở khu vực nằm trong đường xích đạo trải từ vĩ độ 30° Bắc đến 30° Nam. Các loài san hô tạo rạn không sống tại các độ sâu quá 46 m và nhiệt độ dưới 20°C.
Tuy nhiên theo những thống kê gần đây, diện tích rạn san hô trên thế giới đã mất khoảng 19% và khoảng 20% số rạn đang trong tình trạng có chiều hướng bị đe dọa nghiêm trọng và sẽ mất trong vòng 20 – 40 năm tới. Năm 1999, Liên minh Châu Âu (EU) đã ban hành lệnh cấm nhập khẩu một số loài san hô nhất định, điển hình là loài Catalaphyllia jardinei, Cynarina lacrimalis, Menenzophyllia turbida và Trachyphyllia radiata, nhằm tránh cho những loại san hô này bị khai thác quá mức.
Bên cạnh đó nhu cầu về các loại san hô ngày càng tăng cao để phục vụ cho các nghiên cứu về các hoạt chất tự nhiên từ biển hay phục vụ cho nhu cầu thương mại cá cảnh biển trên thế giới dẫn đến nguồn lợi san hô ngày càng bị khai thác quá mức, chính vì những lý do trên mà nuôi trồng san hô có thể là một giải pháp tiềm năng cho việc cung ứng sinh khối san hô một cách liên tục và bền vững.
Nhân giống san hô bằng sinh sản vô tính là một quá trình tương đối đơn giản và có chi phí thấp, thường được sử dụng để tạo ra các tập đoàn san hô mới với tỷ lệ sống cao, việc nuôi cấy san hô sẽ làm giảm áp lực khai thác lên nguồn lợi san hô tự nhiên, đồng thời phục vụ cho nhu cầu thương mại ngày càng gia tăng trên thế giới. Việc nuôi cấy san hô có thể thực hiện trong điều kiện môi trường tự nhiên hoặc trong phòng thí nghiệm, khi nuôi cấy san hô tại chỗ trong điều kiện tự nhiên thì san hô không mất thời gian để thích ứng với các điều kiện trong hệ thống nhân tạo, tuy nhiên các san hô mới cấy có thể bị ảnh hưởng bởi mùn bã hữu cơ và trầm tích biển, mầm bệnh hoặc địch hại và các mối nguy từ tự nhiên khác nên có thể làm giảm tỷ lệ sống. Khi nhân giống san hô trong điều kiện thí nghiệm thì có thể kiểm soát được các yếu tố nguy hại từ tự nhiên như đã liệt kê ở trên làm gia tăng tỷ lệ sống sót, gia tăng tốc độ tăng trưởng tối đa thông qua các tác động của điều kiện nuôi như ánh sáng, dòng chảy và nguồn thức ăn được cung cấp đầy đủ. Các nghiên cứu cho thấy khi phân nhánh san hô, chân bám và chất kết dính là các yếu tố quan trọng để hỗ trợ san hô sống sót và sinh trưởng, loại chân đế phụ thuộc vào loài cũng như mục đích nuôi trồng san hô (trong phòng thí nghiệm hay ngoài tự nhiên), việc sử dụng các loại chân đế khác nhau trong phân mảnh san hô cứng được nghiên cứu bởi nhiều nhà khoa học khác nhau như Acropora palmata(Lirman, 2000); Montastraea annularis (Van Veghel and Bak, 1994), Montipora ramose (Heyward, A.J., Collins, J.D., 1985).
Giống Euphyllia thuộc ngành ruột khoang Cnidaria, lớp san hô Anthozoa, bộ san hô cứng Scleractinia, họ Euphyllidae, là san hô cứng polyp dài/lớn (LPS). Chúng thường có màu xanh, nâu, hồng, vàng nhạt, kem với đầu xúc tu có màu trắng hoặc xanh nhạt. Nhiều loài có xúc tu dài tới 2-3cm. San hô Euphyllia dinh dưỡng bằng hai hình thức: tự dưỡng nhờ tảo cộng sinh Zooxanthellae và dị dưỡng thông qua 3 cách như bắt mồi bằng các xúc tu; lọc thức ăn qua màng nhày và hấp thụ các chất dinh dưỡng hòa tan qua màng tế bào. Các loài trong giống san hô này dễ thích nghi trong điều kiện nuôi nhân tạo, tuy nhiên lại khá nhạy cảm đối với động vật nguyên sinh và sánh sáng trực tiếp của đèn halide kim loại, ngoài ra phải bổ sung các yếu tố cần thiết để duy trì sinh trưởng cho san hô. Sắt và magiê có tác dụng giảm sự tổn thương của các xúc tu, vì vậy cần bổ sung các yếu tố này thường xuyên trong môi trường nuôi.Atkinson M. J (1995) khi nghiên cứu về nhu cầu dinh dưỡng của nhóm san hô Euphyllia sp trong thủy cung cho thấy, khi không cho san hô ăn nhưng cung cấp đủ ánh sáng, chúng vẫn tăng trưởng bằng hình thức tự dưỡng nhờ tảo cộng sinh zooxanthellae. Tuy nhiên san hô sử dụng năng lượng cho nhiều chức năng như hô hấp, sản xuất dịch nhày, sinh trưởng và sinh sản. Tổng năng lượng cho quá trình hô hấp chiếm 60 - 70% nguồn năng lượng của san hô, vì vậy san hô cần thêm năng lượng bằng con đường khác, đó là dị dưỡng.
Một số loài san hô trong giống Euphyllia thường nuôi như Euphyllia ancora (san hô búa, san hô mỏ neo hay san hô xúc xích); Euphyllia divisa (san hô trứng ếch hay san hô chùm nho); Euphyllia glabrescens thường gọi là san hô đuốc (Torch coral) hay san hô nhánh (Branch coral). Ở Việt nam, san hô Euphyllia glabrescens thường có màu nâu với đỉnh xúc tu có màu trắng hoặc xanh, ngoài ra Euphyllia glabrescens nhập ngoại rất đa dạng về màu sắc. Thức ăn chủ yếu của san hô nhờ quang hợp của tảo cộng sinh Zooxanthellae. Tuy nhiên, loài Euphyllia glabrescens cũng bắt mồi, ăn lọc thức ăn qua màng nhày và hấp thụ dinh dưỡng hòa tan bằng cách vận chuyển chủ động các phân tử hữu cơ qua màng tế bào. Thức ăn chủ yếu của chúng là động vật không xương sống, các loại hải sản đông lạnh xay nhỏ và động thực vật phù du. Các loài thuộc giống Euphyllia sp thuộc họ san hô cứng nên yêu cầu hàm lượng canxi trong nước cao, duy trì xung quanh mức 400ppm để cho san hô sinh trưởng và phát triển bình thường. |