Bệnh tăng huyết áp là bệnh phổ biến trên thế giới cũng như ở Việt Nam, là mối đe dọa rất lớn đối với sức khoẻ của con người, là nguyên nhân gây tàn phế và tử vong hàng đầu ở người cao tuổi. Trong số các trường hợp mắc bệnh và tử vong do tim mạch hàng năm có khoảng 35 - 40% nguyên nhân do tăng huyết áp. Theo ước tính của Tổ chức Y tế Thế giới, năm 2000 toàn thế giới có tới 972 triệu người bị tăng huyết áp và con số này tăng lên là khoảng 1,56 tỷ người vào năm 2025. Tại Việt Nam, tỷ lệ tăng huyết áp trong các nghiên cứu về dịch tễ học vào khoảng từ 20% đến 25%. Tăng huyết áp nếu không được điều trị đúng và đầy đủ sẽ gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm như: tai biến mạch máu não, suy tim, suy mạch vành, suy thận... Việc kiểm soát huyết áp đạt mục tiêu sẽ đem lại hiệu quả tích cực trong việc giảm tỷ lệ tử vong cũng như tàn tật do các bệnh lý liên quan đến tăng huyết áp.
Đối tượng nghiên cứu: Bệnh nhân (BN) được chẩn đoán tăng huyết áp (THA) điều trị nội trú tại Khoa Nội Tim mạch Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế (trong khoảng thời gian từ 1/1/2014 đến 31/12/2014).
Phương pháp nghiên cứu:
- Thiết kế nghiên cứu theo kiểu cắt ngang, mô tả, không can thiệp.
- Thu thập thông tin từ bệnh án lưu tại phòng Kế Hoạch - Tổng Hợp Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế. Thu thập và đánh giá thông tin theo “phiếu khảo sát”
- Cách lấy mẫu: lấy tất cả bệnh án thỏa mãn tiêu chuẩn đưa vào nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu tất cả các thuốc hạ áp gặp trong mẫu nghiên cứu đều nằm trong danh mục thuốc hạ áp theo khuyến cáo của Hội Tim mạch học Việt Nam. Ức chế men chuyển và chẹn kênh calci là hai nhóm thuốc được dùng phổ biến nhất (96,6% và 71,4%). Tỷ lệ sử dụng phác đồ đa trị cao hơn tỷ lệ sử dụng phác đồ đơn trị trong cả liệu pháp khởi đầu (64,7%>35,3%) và liệu pháp cuối (61,9%>38,1%). Tỷ lệ bệnh nhân gặp tương tác giữa thuốc hạ áp với các thuốc khác trong phác đồ là 7,5%. Tỷ lệ bệnh nhân được chỉ định sử dụng thuốc hợp lý là 84,3%. Đánh giá hiệu quả sử dụng thuốc trong điều trị cho thấy tỷ lệ bệnh nhân đạt huyết áp mục tiêu trước khi ra viện là 67,3%. Phần lớn bệnh nhân được đánh giá là có tình trạng tốt khi ra viện, chiếm 81,7%.
Tất cả các thuốc hạ áp gặp trong mẫu nghiên cứu đều nằm trong danh mục thuốc hạ áp theo khuyến cáo của Hội Tim mạch học Việt Nam, tỷ lệ sử dụng phác đồ đa trị cao hơn tỷ lệ sử dụng phác đồ đơn trị, tỷ lệ tương tác thuốc – thuốc khá thấp, phần lớn bệnh nhân được đánh giá là có tình trạng tốt khi ra viện. |