Hàng năm, ngành tôm đóng góp khoảng 40 -45% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản, tương đương 3,5 - 4 tỷ USD. Năm 2020, sản lượng nuôi tôm của nước ta đạt 950 nghìn tấn (bằng 126,66%so với năm 2019); trong đó, tôm sú đạt 267,7 nghìn tấn, tôm thẻ chân trắng đạt 632,3 nghìn tấn (Pham, 2021). Song song với sự phát triển nhanh, mạnh của ngành tôm thì môi trường nuôi ngày càng bị ô nhiễm, dẫn đến tình trạng dịch bệnh xảy ra ngày càng nhiều hơn. Năm 2020, tổng diện tích nuôi tôm bị thiệt hại do dịch bệnh là 6.858,14 ha, chiếm 15,82% trong tổng diện tích tôm nuôi thiệt hại và tăng 7,4% so với cùng kỳ năm 2019 (MARD, 2016). Khi tôm bệnh, người dân thường sử dụng kháng sinh để điều trị. Việc sử dụng kháng sinh sai nguyên tắc hay lạm dụng kháng sinh dẫn đến tình trạng kháng sinh chưa thực sự phát huy tác dụng mà còn gây ra hiện tượng kháng kháng sinh. Từ đó gây khó khăn choviệc điều trị bệnh, tồn lưu kháng sinh trong sản phẩm tôm thu hoạch gây áp lực lên xuất khẩu, đồng thời gây hậu quả lâu dài cho sức khỏe cộng đồng (Nguyen & ctv., 2020). Vibrio spp. không những là tác nhân gây bệnh trên động vật thủy sản mà còn có thể gây ngộ độc thực phẩm ở người (Nguyen & ctv., 2014a). Tình trạng kháng kháng sinh của vi khuẩn Vib-riospp. đã được ghi nhận phổ biến trên ngườivà trên động vật, kể cả động vật thuỷ sản. Tuy nhiên, cho đến hiện tại, có rất ít nghiên cứu về tình trạng đề kháng kháng sinh của vi khuẩn Vib-rio spp. phân lập từ tôm được bán trên thị trường tiêu thụ trong nước. Nghiên cứu này nhằm xác định tính nhạy cảm của một số kháng sinh đối với các chủng Vibriospp. phân lập từ tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) nuôi thương phẩm được kinh doanh tại Chợ Đầu Mối Bình Điền, TP. Hồ Chí Minh. Các loại kháng sinh được sử dụng trong nghiên cứu này là những kháng sinh đang được sử dụng trên thủy sản như ampicillin, gentamicin, streptomycin, kanamycin, doxycy-cline, tetracycline, nalidixic acid, ciprofloxacin, trimethoprim/sulfamethoxazole (Nguyen & ctv.,2012; Ho & ctv., 2019; Le & ctv., 2019) và kháng sinh thuộc danh sách cấm sử dụng của MARD(2016) là ciprofloxacin, chloramphenicol. Theo số liệu gần đây của nhiều tác giả, ciprofloxacin và chloramphenicol vẫn còn được sử dụng trong nuôi tôm (Le & ctv., 2018; Nguyen & ctv., 2019; Phan & ctv., 2019).
Nghiên cứu này gồm 6 đợt thu mẫu, mỗi đợt thu 5 mẫu; trọng lượng mỗi mẫu là 500 g, cỡ tôm thu mẫu khoảng 20 - 25 g/con. Tổng cộng có ba mươi mẫu tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus van-namei) còn sống đã được thu thập. Tôm được cho vào các túi nhựa sạch, bảo quản lạnh và chuyển ngay về phòng thí nghiệm.
Mười loại kháng sinh đã được sử dụng để kiểm tra tính đề kháng của các chủng Vibriospp. bao gồm ampicillin, ciprofloxacin, chloramphenicol, doxycycline,gentamicin, kanamycin, nalidixic acid, streptomycin, tetracycline andtrimethoprim/sulfamethoxazole. Kết quả kháng sinh đồ cho thấy tỷ lệ phần trăm các chủng Vibrio spp. kháng kháng sinh lần lượt là 92; 12;0; 0; 3,3; 80; 3,3; 46,7; 3,3 và 18%. Tỷ lệ đa kháng từ hai đến năm loại kháng sinh là 88,7%, đặc biệt, không có bất kỳ chủngVibriospp. nào nhạy cảm với tất cả kháng sinh thử nghiệm. Chỉ số đa kháng kháng sinh (MAR) là 0,259 cho thấy các chủng vi khuẩn phân lập từ tôm đã tiếp xúc với các kháng sinh được kiểm tra. |