Xoài thuộc nhóm trái cây nhiệt đới được trồng cho mục đích thương mại ở nhiều quốc gia trên thế giới. Xoài chứa nhiều chất xơ, vitamin, carotenoids và nhiều chất có hoạt tính chống oxy hóa. Tuy nhiên, xoài sau khi thu hoạch dễ bị bệnh và hư hỏng. Bệnh thán thư (anthracnose) do nấm Colletotrichum spp. là nguyên nhân chính dẫn đến sự hư hỏng của trái xoài sau thu hoạch. Bệnh này thường gặp trong suốt quá trình vận chuyển và tồn trữ ở tất cả các khu vực sản xuất xoài trên thế giới. Để duy trì chất lượng và kéo dài thời gian tồn trữ của xoài Cát Hòa Lộc sau thu hoạch, việc áp dụng các phương pháp xử lý sau thu hoạch là điều cần thiết. Nhiều biện pháp được áp dụng nhằm làm giảm thiệt hại do bệnh thán thư gây ra như sử dụng thuốc hóa học nhưng tồn dư thuốc có thể tác động xấu đến sức khỏe người tiêu dùng và gây ô nhiễm môi trường. Một biện pháp khác được áp dụng là xử lý hơi nước nóng nhưng việc kiểm soát đồng nhất nhiệt độ gặp khó khăn nên xoài thường bị tổn thương do nhiệt. Do đó, các biện pháp khác được khuyến cáo đó là khai thác tiềm năng của vi sinh vật đối kháng. Do tính an toàn và khả năng đối kháng cao nên hiện nay bacteriocin do vi khuẩn lactic sinh ra đang được nghiên cứu rộng rãi. Bacteriocin là những protein hoặc phức hợp protein có hoạt tính kháng nấm. Những nghiên cứu về vi khuẩn lactic kháng bệnh trên quả đã được công bố như sử dụng Lactobacillus plantarum chống lại sự phát triển của nấm Penicillium Expansum trên trái táo (in vitro), Lactococcus lactic subsp. đối kháng nấm bệnh Rhizopus stolonifer VBAM1 trên trái mít (in vitro). Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào ứng dụng vi khuẩn lactic để kiểm soát bệnh thán thư trên xoài. Do vậy, việc nghiên cứu hoạt tính kháng nấm của vi khuẩn lactic phân lập từ thực phẩm lên men truyền thống sẽ là hướng đi mới nhằm kiểm soát bệnh thán thư gây ra bởi nấm Colletotrichum spp. trên trái xoài sau thu hoạch. Đồng thời, phương pháp này có tiềm năng thay thế cho phương pháp sử dụng thuốc hóa học truyền thống.
Phân lập nấm Colletotrichum spp. từ trái xoài Cát Hòa Lộc: Trái xoài Cát Hòa Lộc với các dấu hiệu của bệnh thán thư như các chấm tròn li ti, màu nâu nhạt hoặc đốm tròn lớn màu nâu đậm, nhiều vết bệnh liên kết lại tạo thành vết bất dạng được dùng cho việc phân lập nấm Colletotrichum spp. Nấm được phân lập theo quy trình của Araújo và cộng sự (2001) có chỉnh sửa và bổ sung. Trái xoài được khử trùng bề mặt bằng cồn 70ᵒ. Cắt mẫu bệnh (chọn vị trí bao gồm cả mô bệnh và mô khỏe) với kích thước 5 x 5 mm cho vào Javel 2%, để yên 2-3 phút, rửa mẫu với nước cất tiệt trùng 3 lần (mỗi lần 1 phút), đặt mẫu lên giấy vô trùng để khô. Sau đó, đặt mẫu lên thạch PDA (Potato Dextrose Agar, dịch chiết khoai tây (200 g/L nước), 20 g/L glucose và 20 g agar/L, pH 7.0), trữ mẫu ở nhiệt độ 25 - 30℃. Các mẫu nấm sau khi phân lập được lây bệnh nhân tạo trên trái xoài theo quy trình Koch để xác định khả năng gây bệnh của chủng nấm. Các bước thực hiện gồm: chuẩn bị trái xoài không bị bệnh, vệ sinh sạch sẽ, sau đó để khô rồi gây vết thương lên 3 vị trí của trái. Dịch bào tử Colletotrichum spp. (106 bào tử/mL) được phun lên 3 vị trí vết thương. Trái xoài sau khi lây nhiễm sẽ được bảo quản trong thời gian 14 ngày ở nhiệt độ phòng. Đối với nghiệm thức đối chứng thì không phun dịch bào tử nấm mà được thay bằng nước cất vô trùng. Các biểu hiện bệnh trên trái xoài được quan sát hằng ngày và chọn mẫu nấm có khả năng gây bệnh tương tự ngoài tự nhiên để tiếp tục nghiên cứu.

Kết quả phân lập nấm Colletotrichum spp.: (a). Trái xoài bị bệnh thán thư được chọn để phân lập nấm Colletotrichum spp.; (b). Chủng nấm TX1 sau 3 ngày nuôi cấy; (c). Chủng nấm TX1 xuất hiện giọt dầu sau 6 ngày nuôi cấy; (d). Bào tử của chủng nấm TX1 được xem ở lăng kính 40X
Nghiên cứu đã phân lập và tuyển chọn được 3 chủng vi khuẩn lactic từ mẫu thực phẩm lên men kim chi có hoạt tính kháng với nấm Colettotrichum gây bệnh thán thư trên trái xoài Cát Hòa Lộc sau thu hoạch. Chủng vi khuẩn LKC1 thể hiện hoạt tính kháng nấm cao nhất và tương đồng 100% với vi khuẩn Lactobacillus plantarum. |