Hiện nay, cùng với sự phát triển của y học hiện đại, nhiều hợp chất tự nhiên có hoạt tính sinh học mạnh chiết xuất từ thực vật đã được tìm ra. Là hợp chất được tìm thấy phần lớn trong thực vật, saponin có khả năng tạo bọt trong môi trường lỏng. Trong thực vật, saponin hiện diện ở hầu hết các bộ phận khác nhau của cây như rễ, thân, lá, hoa và hạt. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh saponin có các hoạt tính sinh học mạnh mẽ như chống viêm nhiễm, kháng ung thư, kháng vi khuẩn, ngăn ngừa các bệnh tim mạch và tăng cường hấp thụ.
Chi Dracaena gồm 153 loài phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới như châu Phi và châu Á. Cây Phát lộc (D. braunii Engl.), tên đồng nghĩa D. sanderiana Sander, là một loài thuộc chi Dracaena, họ Asparagaceae, có thể được tìm thấy rộng rãi ở châu Phi và châu Á. Tại Việt Nam, loài cây này phân bố nhiều ngoài tự nhiên và được trồng trong nhà với mục đích làm cảnh. Cây Phát lộc (D. braunii Engl.) thuộc chi Dracaena vốn đã được biết tới là nguồn các hợp chất có hoạt tính sinh học mạnh mẽ. Dịch chiết ethanol của cây Phát lộc và chứng minh dịch chiết ethanol có khả năng chống oxi hóa mạnh. Tuy nhiên, hiện chưa có nghiên cứu nào về đánh giá hoạt tính kháng khuẩn, cũng như nghiên cứu phân lập hợp chất saponin của cây Phát lộc, nhất là khi loài thực vật này có thể được tìm thấy dễ dàng ngoài tự nhiên. Do đó, việc tiến hành nghiên cứu hoạt tính kháng khuẩn và phân lập hợp chất saponin của cây Phát lộc là rất cần thiết, có ý nghĩa thực tiễn nhằm tìm ra các hợp chất mới có hoạt tính sinh học, làm cơ sở cho việc sử dụng làm thuốc chữa bệnh, đồng thời góp hoàn thiện dữ liệu về phân loại hoá học thực vật đối với các loài thuộc chi Dracaena, họ Asparagaceae.
Đối tượng nghiên cứu: Mẫu vật: Phần rễ của loài Phát lộc được thu thập vào tháng 06/2022 tại thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên, Việt Nam (tọa độ 21°35'53" N, 105°50'17" E). Mẫu vật được lưu giữ tại Khoa Sinh học, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên

Hình ảnh phần thân lá và rễ của cây Phát lộc
Cao chiết ethanol của rễ cây Phát lộc ở các nồng độ khảo sát 0,6; 1,0 và 1,4 g/mL có hoạt tính kháng các loài vi khuẩn S. aureus, P. aeruginosa, L. plantarum, E. coli và C. freundii. Hoạt tính kháng các loại vi khuẩn S. aureus, P. aeruginosa, L. plantarum, E. coli và C. freundii cao nhất ở nồng độ 1,4 g/mL và thấp nhất ở nồng độ 0,6 g/mL. Nghiên cứu đã phân lập được một hợp chất saponin steroid từ cao chiết ethanol nồng độ 1,4 g/mL bằng các phương pháp sắc ký khác nhau. Hợp chất này sau đó được đo phổ cộng hưởng từ hạt nhân và phổ khối lượng để làm sáng tỏ cấu trúc hóa học là 26-O-β-D-glucopyranosyl-furost-5,25(27)-dien-1β,3β,22,26-tetrol 1-O-α-L- rhamnopyranosyl-(1→2)-α-L-arabinopyranoside. |