Phân bón hữu cơ (PBHC) được khoa học chứng minh là chứa một lượng vừa phải các chất dinh dưỡng thiết yếu cho cây trồng, giúp giảm lượng phân bón hóa học, cải thiện độ phì nhiêu đất, nâng cao năng suất cây trồng và góp phần bảo vệ môi trường (Lewu & ctv., 2020). Thị trường PBHC ở Việt Nam đa dạng với nhiều chủng loại có nguồn gốc khác nhau, từ chất thải chăn nuôi, phụ phẩm cây trồng, các loại thực vật, chất thải sinh học, đến bùn thải... Trong các loại PBHC có nguồn gốc từ động vật, phân gà không chỉ chứa hàm lượng chất hữu cơ cao mà còn giàu đạm (N), lân và kali. Trong nhóm các nguyên tố đa lượng, N là thành phần quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất và chất lượng cây trồng, đặc biệt là ở nhóm rau ăn lá. Phân bón hóa học và phân hữu cơ đều có thể cung cấp nguồn N cho cây, tuy nhiên lượng N hấp thu và hiệu quả sử dụng phân bón còn tùy thuộc vào điều kiện canh tác, giá trị hữu dụng và khả dụng khoáng hóa N trong đất. Chất lượng của PBHC trên thị trường được đánh giá chủ yếu qua giá trị dinh dưỡng trên bao bì, các vấn đề liên quan đến độc tính của sản phẩm sau ủ và hiệu quả sử dụng phân bón trên cây trồng ít được quan tâm hơn. Kết quả nghiên cứu ban đầu về mô hình ủ com-post hiếu khí cho thấy thời gian ủ có thể rút ngắn hơn so với mô hình đảo trộn thủ công nhưng vẫn đáp ứng tốt các chỉ tiêu chất lượng và kiểm soát yếu tố hạn chế dưới ngưỡng cho phép theo qui định đối với PBHC truyền thống. Báo cáo này cũng đề xuất rằng, sau bước kiểm tra tự sinh nhiệt RT - TSN, compost cần được tiếp tục đánh giá mức độ an toàn và hiệu quả sử dụng trên cây trồng. Vì vậy, nghiên cứu được thực hiện nhằm mục tiêu (i) kiểm tra độc tính của hai loại phân ủ compost dựa trên chỉ số nảy mầm GI, (ii) đánh giá chất lượng phân ủ dựa trên năng suất và hiệu quả sử dụng N từ phân bón của cây cải xoong Nhật (Nasturtium officinale).
Nghiên cứu được tiến hành tại Trại Thực nghiệm Khoa Nông học, Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh từ tháng 12/2020 đến tháng 6/2021, trong đó thời gian thí nghiệm kiểm trắng (trồng rau không sử dụng phân bón) từ tháng 12/2020 đến tháng 03/2021; thí nghiệm trồng rau chính thức từ ngày 18/3/2021 đến 19/4/2021 (thu đợt 1) và từ ngày 20/4/2021 đến ngày 16/5/2021 (thu đợt 2). Nhiệt độ trung bình, tổng lượng mưa và tổng số giờ nắng qua các tháng thí nghiệm dao động trong các khoảng chênh lệch lần lượt là 29,2◦C - 29,7◦C; 260,9 - 341,4 mm và 187,2 - 235,4 giờ nắng (SRHC – Đài khí tượngThủy văn khu vực Nam bộ, 2021; số liệu khôngthể hiện qua bảng). Lớp đất mặt 0 – 20 cm ở khu vực thí nghiệm có thành phần cơ giới thịt pha cát, đất chua ít, nghèo chất hữu cơ và đạm tổng số, nhưng giàu lân và kali hữu hiệu.
Kết quả cho thấy ủ compost từ mô hình hiếu khí trong nghiên cứu trước đó giúp giảm độc tính của nguồn nguyên liệu thông qua cải thiện chỉ sốGItừ 49% đến 58% - 90%. Tổng chất rắn hòa tan trong mẫu compost A và hàm lượng kim loại nặng trong mẫu compost B đều dưới ngưỡng cho phép nhưng có thể hạn chế sự phát triển của rễ. Hai loại phân ủ compost A và compost B trong thí nghiệm cho năng suất rau thu hoạch 1663,2 - 1762,2 kg/1000 m2 tương đương với phân bón hóa học nhưng thấp hơn (P< 0,01) so với phân hữu cơ vi sinh thương mại (2476,3 kg/1000 m2). Sau 25 ngày bón, cây trồng đã sử dụng hết ½ lượng N từ phân hóa học hoặc phân hữu cơ vi sinh, gấp đôi so với lượng N từ hai loại phân ủ compost. |