Cây Ba chạc (Euodia lepta (Spreng.) Merr.) còn có tên Chè đắng, Chè cỏ, Dầu dấu ba lá… được dùng trong dân gian với mục đích chữa ghẻ, mụn nhọt, lở ngứa, chốc đầu, trị phong thấp, đau nhức gân xương… Theo báo cáo của Phan Xuân Thiệu (2007), hàm lượng tinh dầu trong lá cây Ba chạc ở Nghệ An là 0,05% với thành phần chính là β-Ocimene (35,1%), limonen (5,78%) tại Đà Nẵng, chưa có công bố dữ liệu về mặt thực vật, hoá học và tinh dầu của cây Ba chạc. Đối tượng nghiên cứu loài Ba chạc có tên khoa học Euodia lepta (Spreng.) Merr., họ Cam (Rutaceae). Thời gian thu hái: Tháng 3-6/2020 tại núi Sơn Trà, Đà Nẵng. Phương pháp nghiên cứu Điều tra thu thập, xử lý mẫu vật và thông tin: Thu thập và làm mẫu khô, khảo sát sơ bộ thành phần hóa học: Chiết xuất bột dược liệu bằng các dung môi có độ phân cực khác nhau, thực hiện các phản ứng hóa học đặc trưng của các nhóm chất, Phương pháp xác định tên khoa học: Thu thập mẫu có đầy đủ các bộ phận. Áp dụng phương pháp so sánh hình thái, đối chiếu với tài liệu để xác định chính xác loài. Kết quả lá và rễ có chứa alkaloid, tinh dầu, flavonoid, coumarin, saponin, steroid, acid hữu cơ, đường khử, tinh bột... Hàm lượng tinh dầu trong lá Ba chạc là 0,097% (v/w) với 40 hợp chất được xác định (99,06%), với thành phần chính là β-citronellal (16,73%), β-citronellol (13,93%), D-Limonene (12,12%).
Đặc điểm thân, lá, hoa, quả, hạt, cấu tạo giải phẫu rễ, thân, lá và đặc điểm bột rễ, thân, lá của cây Ba chạc đã được mô tả và lưu giữ hình ảnh. Trong lá Ba chạc có chứa alkaloid, tinh dầu, flavonoid, coumarin, saponin, sterol, acid hữu cơ, đường khử; trong rễ Ba chạc có chứa alcaloid, tinh dầu, flavonoid, coumarin, saponin, sterol, acid hữu cơ, đường khử, tinh bột. Tinh dầu lá có hàm lượng 0,097%, màu vàng nhạt, nhẹ hơn nước, có mùi đặc trưng của họ cam có 42 hợp chất được xác định với thành phần chính là β-citronellal (16,73%), β-citronellol (13,93%), D-Limonene (12,12%). |