Ngành nuôi trồng thủy sản là một ngành sản xuất mũi nhọn với tiềm năng xuất khẩu lớn của nước ta, trong đó có nuôi tôm thẻ chân trắng. Theo thống kê của Tổng cục Thủy sản năm 2019, Việt Nam là quốc gia đứng thứ 3 về sản xuất tôm sú trên thế giới (Tổng cục Thủy sản, 22/3/2019). Năm 2020, diện tích thả nuôi tôm nước lợ là 742.483 ha. Số liệu cho thấy diện tích thả nuôi bằng 104,2% so với cùng kỳ năm 2019, trong đó diện tích nuôi lần lượt trên tôm sú là 629.065 ha và tôm thẻ chân trắng là 113.418 ha. Tuy nhiên, việc áp dụng quy mô nuôi tôm công nghiệp mật độ cao, dinh dưỡng nhiều và kết hợp với môi trường bất lợi; tôm rất dễ bị bệnh nếu quản lý ao nuôi không tốt. Bệnh phân trắng (White feces disease - WFD) đã xuất hiện ở các trang trại nuôi tôm sú và tôm thẻ chân trắng ở châu Á và gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành nuôi tôm (Thitamadee & ctv., 2016). Tôm bị bệnh có dấu hiệu tăng trưởng chậm và có tỷ lệ chuyển hoá thức ăn cao. Tuy nhiên tôm bệnh không có dấu hiệu lâm sàng cụ thể. WFD thường được chẩn đoán bằng cách dựa vào sự xuất hiện của các sợi phân màu trắng nổi trên mặt nước ao (Somboon & ctv., 2012). Bệnh phân trắng thường xuất hiện ở tôm có độ tuổi sau 30-40 ngày thả nuôi, và có thể kèm theo hiện tượng chết của tôm (Sriurairatana & ctv., 2014, Kumar & ctv., 2022). Các dấu hiệu bên ngoài của tôm bị bệnh bao gồm ruột trắng hoặc nâu vàng và vỏ đầu mềm (Somboon & ctv., 2012; Sriurairatana & ctv., 2014; Tang & ctv., 2016; Hou & ctv., 2018, Kumar & ctv., 2022). Mặc dù nguyên nhân của WFD chưa được thiết lập, nhưng nhóm vi khuẩn Vibrio và sự xuất hiện ATM - Aggregated Transformed Microvilli (sự tích tụ các vi sợi bị biến dạng) giống như trùng 2 tế bào (Gregarines) đã được xem là có liên quan đến WFD ở Thái Lan (Limsuwan, 2012; Flegel, 2014; Sriurairatana & ctv., 2014). Ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), WFD xuất hiện từ năm 2006. Bệnh không xảy ra thành dịch mà chỉ xuất hiện tập trung ở một số ao thả nuôi với mật độ cao và nuôi theo quy trình truyền thống ít thay nước. WFD thường xuất hiện sau 2 tháng thả nuôi và có thể xuất hiện quanh năm tùy thuộc vào mùa vụ nhưng tập trung cao vào các tháng 6, 7 và 8 khi thời tiết thay đổi lúc giao mùa (Đặng Thị Hoàng Oanh & ctv., 2008). WFD trên tôm nuôi ở các tỉnh Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau bị nhiễm nhiều mầm bệnh ở dạng nhiễm đơn, nhiễm kép và đa nhiễm (Đặng Thị Hoàng Oanh & ctv., 2008). Tỉ lệ nhiễm thấp các mầm bệnh ký sinh trùng (trùng loa kèn và trùng hai tế bào - Gregarine) và vi-rút (HPV và MBV) cho thấy các mầm bệnh này không phải là tác nhân gây bệnh phân trắng. Dựa trên kết quả phân lập vi khuẩn từ tôm bệnh phân trắng và gây cảm nhiễm cho thấy, nhóm vi khuẩn Vibrio có khả năng gây hoại tử gan tuỵ và làm chết tôm ở mật độ cảm nhiễm khoảng 108 CFU/ml nhưng không gây hiện tượng phân trắng (Đặng Thị Hoàng Oanh, 2010). Một vài nghiên cứu đã xác định mối quan hệ giữa WFD và nhiễm Enterocytozoon hepatopenaei (EHP), Gregarines và vi khuẩn Vibrio (Somboon & ctv., 2012; Sriurairatana & ctv., 2014; Tang & ctv., 2016; Supono & ctv., 2019). Tuy nhiên, một nghiên cứu khác cho thấy rằng các ao không có WFD cũng bị nhiễm EHP và báo cáo này cho rằng EHP không có mối liên quan với WFD (Tangprasittipap & ctv., 2013). Dựa vào sự hiện diện Vibrio sp. ở tôm bị WFD có mật độ cao hơn so với tôm khỏe mạnh, nên Vibrio sp. được cho rằng là nguyên nhân gây ra WFD (Somboon & ctv., 2012; Supono & ctv., 2019). Một số loài Vibrio sp. hiện diện ở tôm bị WFD với mật độ cao gồm V. vulnificus, V. fluvialis, V. parahaemolyticus, V. alginolyticus, V. minicus, V. cholera và V. damselae trong máu và ruột của tôm WFD cao gấp hai lần so với tôm khỏe mạnh (Somboon & ctv., 2012). Vài nghiên cứu gần đây cho rằng nhóm Vibrio là tác nhân chính gây ra WFD và gây chết tôm he Penaeid dựa vào bệnh lý lâm sàng của tôm bị WFD và quá trình phát sinh bệnh trên cơ sở kiểm tra mô bệnh học, trong đó đồng nhiễm V. sinaloensis và V. parahaemolyticus liên quan chặt chẽ đến sự bùng phát của WFD (Quang & ctv., 2020). Theo Caro & ctv. (2021), EHP được xem như là một mầm bệnh đường ruột chính của tôm Penaeid. Việc gây nhiễm EHP kết hợp với Vibrio parahaemolyticus gây ra hiện tượng phân trắng trên tôm thí nghiệm. Kumar & ctv. (2022) cho rằng WFD là một dấu hiệu lâm sàng của bệnh đường ruột ở tôm, và các sợi phân trắng bị nhiễm nhiều EHP. Bệnh chuyển nặng hơn có thể là do nhiễm EHP kết hợp với một tác nhân khác. Trong ngành nuôi trồng thủy sản, tảo là một trong những mắc xích quan trọng trong chuỗi thức ăn tự nhiên và có vai trò quan trọng trong việc cân bằng các yếu tố môi trường. Tuy nhiên, tảo xuất hiện với mật độ quá cao sẽ gây biến động môi trường nước ao nuôi, hoặc xuất hiện tảo độc sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của tôm. Có hai loại tảo độc là tảo lam và tảo giáp. Các loại tảo này thường tiết ra độc tố gây hoại tử gan tôm và làm cho tôm mẫn cảm với các tác nhân gây bệnh cơ hội khác. Tảo lam hay còn gọi là tảo xanh, là loài tảo độc thường xuất hiện rất nhiều trong ao nuôi tôm, với 2 loại phổ biến: dạng sợi và dạng hạt. Khi tảo lam phát triển với mật độ dày đặc có thể dễ dàng nhận thấy các hạt nhỏ nổi trên mặt nước, nước có màu xanh lam và có mùi hôi. Tảo giáp còn gọi là tảo đỏ hay tảo nâu, cũng là một loài tảo độc, thường xuất hiện rất nhiều trong ao nuôi tôm. Nếu tôm ăn phải loài tảo này sẽ khó tiêu, ảnh hưởng đến hệ tiêu hóa và gây bệnh phân bị đứt khúc. Khi tảo giáp phát triển với mật độ cao trong ao, nước sẽ có màu nâu đỏ và xuất hiện nhiều váng nâu đỏ trên mặt nước (Tổng cục Thủy sản, 2018). Trong nghiên cứu này, chúng tôi tổng quan tình hình nuôi và bệnh phân trắng ở một số tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long bao gồm Bến Tre, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang. Ngoài ra, chúng tôi kết hợp thu mẫu các ao bị bệnh phân trắng để phân tích và xác định các mầm bệnh tiềm năng nhiễm trên tôm và nước ao nuôi.
Bệnh phân trắng (WFD) đã được báo cáo ở các trang trại nuôi tôm sú (Penaeus monodon) và tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei) ở châu Á và gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành nuôi tôm. Tôm bị bệnh có dấu hiệu tăng trưởng chậm và có tỷ lệ chuyển hoá thức ăn cao nhưng không có dấu hiệu lâm sàng cụ thể. Từ năm 2006, WFD đã được báo cáo ở Đồng bằng sông Cửu Long, bệnh không xảy ra thành dịch mà chỉ xuất hiện tập trung ở một số ao thả nuôi với mật độ cao và nuôi theo quy trình truyền thống. Để nắm rõ thực trạng của WFD, chúng tôi thu thập số liệu thứ cấp từ báo cáo của các Chi cục Chăn nuôi và Thú Y địa phương và thu thập số liệu sơ cấp từ phỏng vấn trực tiếp ở các nông hộ nuôi tôm, cũng như kết hợp thu mẫu tôm và nước ao nuôi khi ao tôm bị WFD. Kết quả cho thấy WFD tập trung nhiều nhất vào tháng 6 và tháng 11. Tuổi tôm thường xảy ra bệnh trong khoảng 30-60 ngày sau khi thả nuôi đối với tôm thẻ và tuổi bệnh kéo dài hơn ở tôm sú. WFD thường xảy ra ở mô hình nuôi tôm truyền thống (mô hình nuôi 1 giai đoạn). Trong 6 ao tôm Penaeus vannamei bị WFD được thu mẫu để phân tích, một số tác nhân tiềm năng đã được xác định nhiễm trong gan tôm với tần suất cao gồm Enterocytozoon hepatopenaei (66,7%), Vibrio parahaemolyticus (66,7%) và Vibrio alginolyticus (50%). Đối với mẫu nước ao nuôi, các mầm bệnh tiềm năng hiện diện với tần suất cao gồm Vibrio parahaemolyticus (66,7%), Vibrio alginolyticus (66,7%), tảo lam Oscillatoria sp. (50%) với mật độ dao động 0 - 217.500 tế bào/lít, tảo lam Pseudanabaena sp. (66,7%) với mật độ dao động 0 - 21.000 tế bào/lít, tảo lam Phormidium sp. (83,3%) với mật độ dao động 0 - 708.000 tế bào/lít và tảo giáp Diplosalis sp. (50%) với mật độ dao động 0 - 3.050 tế bào/lít. Nghiên cứu này cũng đã phát hiện có 2 chủng Enterocytozoon hepatopenaei khác nhau nhiễm trên tôm của các ao bị bệnh phân trắng ở 2 tỉnh Bến Tre và Bạc Liêu. Ngoài ra, chúng tôi cũng đã phân lập được 9 chủng Vibrio alginolyticus và 9 chủng Vibrio parahaemolyticus trong số 26 chủng Vibrio được phân lập trong mẫu tôm và nước ao. Các chủng này sẽ được chọn lọc để tiến hành gây nhiễm thực nghiệm trong điều kiện in vitro để khẳng định tác nhân cụ thể nhất.
Bệnh phân trắng tập trung nhiều nhất vào thời điểm giao mùa của tháng 6 và tháng 11. Tuổi tôm thường xảy ra bệnh là trong khoảng 30-60 ngày sau khi thả nuôi đối với tôm thẻ. Trong khi ở tôm sú tuổi bệnh kéo dài hơn. Bệnh thường xảy ra ở mô hình nuôi truyền thống (mô hình nuôi 1 giai đoạn). Trong nước nuôi các ao bị bệnh có 3 loài tảo lam xuất hiện với tuần suất cao là Oscillatoria sp., Pseudanabaena sp. và Phormidium sp., và 1 loài tảo giáp Diplosalis sp. Nghiên cứu này cũng đã phát hiện có 2 chủng EHP khác nhau trong các ao bị bệnh phân trắng ở 2 tỉnh Bến Tre và Bạc Liêu, và chúng hoàn toàn giống nhau ở 2 tỉnh này. Ngoài ra, chúng tôi cũng đã phân lập được 9 chủng Vibrio alginolyticus và 9 chủng Vibrio parahaemolyticus trong số 26 chủng Vibrio phân lập được trong mẫu tôm và nước ao nuôi. Chọn lọc từ các chủng này và tiến hành gây nhiễm thực nghiệm trong phòng thí nghiệm để khẳng định lại tác nhân cụ thể nhất.
|