Thứ hai, 17/3/2025 | 05:08:19 [AM]
Nông - Lâm - Ngư nghiệp [ Đăng ngày (20/05/2023) ]
Khảo sát sự ảnh hưởng của mật độ TILAPIA LAKE VIRUS (TiLV) đến khả năng phân lập và nuôi cấy TiLV trên dòng tế bào E-11
Nghiên cứu: “Khảo sát sự ảnh hưởng của mật độ TILAPIA LAKE VIRUS (TiLV) đến khả năng phân lập và nuôi cấy TiLV trên dòng tế bào E-11” do nhóm tác giả: Trần Hạnh Triết , Nguyễn Hoàng Thụy Vy , Ngô Huỳnh Phương Thảo - Trung tâm Công nghệ sinh học TP. Hồ Chí Minh thực hiện.

Cá rô phi là một trong những loài quan trọng và hiện đã được nuôi ở hơn 90 quốc gia, trong đó Trung Quốc, Indonesia và Ai Cập là những quốc gia nuôi nhiều nhất (Wang et al., 2021) we compared newly developed quantitative real-time PCR (qPCR. Sản lượng cá rô phi toàn cầu khoảng 6,4 triệu tấn vào năm 2018 và được kỳ vọng đạt 7,3 triệu tấn vào năm 2030 (FAO, 2019). Tuy nhiên, tình hình dịch bệnh do virus đang gia tăng, trong đó có bệnh do Tilapia Lake virus (TiLV) gây ra đang đe dọa ngành nuôi cá rô phi toàn cầu. TiLV được phát hiện đầu tiên ở cá rô phi nuôi và cá rô phi hoang dại ở Israel (Eyngor et al., 2014). Trong vài năm sau đó, dịch bệnh TiLV đã được ghi nhận ở 16 nước khác ở Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ Latin (Aich, 2022). TiLV là virus có vỏ bọc, mang RNA sợi âm với 10 đoạn trình tự trong bộ gen (10.323 kb) với kích thước khoảng 55-100 nm. Mỗi đoạn trình tự đều có vùng đọc mở, có thể mã hóa cho 14 protein khác nhau. TiLV thuộc họ Amnoonviridae, chi Tilapinevirus and loài Tilapia tilapinevirus. TiLV có thể lây lan theo chiều ngang và chiều dọc. Hiện chưa có phương pháp điều trị hay vắc-xin thương mại để phòng trị bệnh do TiLV gây ra (Aich, 2022). Phương pháp phòng và kiểm soát dịch bệnh chủ yếu dựa vào các biện pháp quản lý tốt điều kiện ao trại và đảm bảo an toàn sinh học. Chính vì vậy, việc phát hiện sớm TiLV rất cần thiết để kịp thời đưa ra giải pháp xử lý dịch bệnh. Tại Việt Nam, sau tôm và cá tra, cá rô phi được kỳ vọng là một trong những động vật nuôi thủy sản chủ lực vào năm 2030 với sản lượng hàng năm 400.000 tấn bao gồm 50-60% dùng cho xuất khẩu (VASEP, 2016). Một vài báo cáo gần đây cho thấy sự hiện diện của TiLV tại một số ao nuôi cá rô phi ở Việt Nam ở mức 3,9% - 26,43% (Ngô Huỳnh Phương Thảo và ctv., 2020; Chi cục Chăn nuôi, Thú y và Thủy sản tỉnh Bình Dương, 2017). Tiêu chuẩn vàng để nhận diện TiLV được Tổ chức Sức khỏe Động vật Thế giới (World Organization for Animal Health, OIE) đề nghị là phân lập virus bằng nuôi cấy tế bào sau khi đã tiến hành chẩn đoán bằng phản ứng PCR phiên mã ngược (RT-PCR) (Pitchaporn et al., 2018)”ISSN”:”0044-8486”,”abstract”:”Tilapia lake virus disease (TiLVD. Việc cảm nhiễm tế bào E-11 với dịch đồng nhất mẫu cá nghi nhiễm TiLV được cho là một phương pháp chẩn đoán TiLV có độ chính xác tương đương phản ứng nested RT-PCR (Tsofack et al., 2017). Tuy nhiên, Ngô Huỳnh Phương Thảo và ctv. (2020) đã đề cập ba yếu tố có thể ảnh hưởng đến khả năng thành công của việc nuôi cấy TiLV trên dòng tế bào E-11 là độc lực virus, mật độ virus và thời gian cấy chuyền virus. Chính vì vậy, trong nghiên cứu hiện tại, chúng tôi muốn khảo sát mật độ virus TiLV trong các mẫu mô cá rô phi nhiễm bệnh và khả năng duy trì được sự tồn tại của các chủng TiLV này khi nuôi cấy bằng dòng tế bào E-11.

Tilapia Lake Virus (TiLV) được xem là mối đe dọa cho ngành nuôi cá rô phi ở nhiều quốc gia. Hiện nay đã có một số nghiên cứu đầu tiên về TiLV phân lập tại Việt Nam nhưng thông tin vẫn còn hạn chế. Trong nghiên cứu hiện tại, sự tác động giữa mật độ TiLV trong các mẫu cá nhiễm bệnh và khả năng phân lập được TiLV bằng cách nuôi cấy với tế bào E-11 được khảo sát. Năm mẫu TiLV phân lập tại Việt Nam cùng với một mẫu TiLV Thái Lan được xác định mật độ bằng phương pháp real-time RT-PCR trước khi dùng để cảm nhiễm tế bào E-11. Bốn mẫu (VL160, VL167, HB188 và HD189) có mật độ virus thấp (22-66 bản sao/µL), trong khi đó mật độ của mẫu HB196 là cao nhất (2,95 x 107 bản sao/µL) và của mẫu Thái Lan (TiLV-TL) là 3,32 x 102 bản sao virus/µL. Kết quả nuôi cấy virus bằng tế bào cho thấy chỉ có mẫu HB196 và TiLV-TL là duy trì được khả năng ly giải tế bào qua nhiều đợt cấy chuyền, còn bốn mẫu TiLV với mật độ thấp có sự ly giải tế bảo giảm dần và mất hẳn qua các đợt cấy chuyền. Điều này cho thấy mật độ virus (≥ 3,32 x 102 bản sao virus/µL) trong mẫu mô ban đầu có thể đảm bảo sự thành công của việc phân lập và duy trì virus TiLV trên dòng tế bào E-11. Bên cạnh đó, nghiên cứu này cũng đưa ra quy trình chẩn đoán TiLV bằng kỹ thuật real-time RT-PCR dùng Sybr green có giới hạn phát hiện ở mức 11,8 bản sao/µL, có khả năng ứng dụng trong các phòng thí nghiệm kiểm soát dịch bệnh do TiLV gây ra

Virus TiLV đã được phát hiện tại nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Mặc dù tình hình nhiễm TiLV ở các trại nuôi cá rô phi tại Việt Nam chưa được công bố nhiều và còn ở tỷ lệ nhiễm thấp, nhưng TiLV vẫn là một đối tượng cần được nghiên cứu để tìm ra giải pháp hiệu quả để phòng trị dịch bệnh do TiLV gây ra. Trong nghiên cứu hiện tại, chúng tôi ghi nhận mẫu mô có mật độ nhiễm TiLV ở mức 3,32 x 102 bản sao virus/µL là thích hợp để phân lập và duy trì chủng TiLV bằng cách nuôi cấy với dòng tế bào E-11. Ngoài ra, quy trình real-time RT-PCR với Sybr Green để định lượng TiLV trong các mẫu bệnh phẩm cũng được thiết lập với giới hạn phát hiện là 11,8 bản sao virus/µL. Quy trình này có thể được ứng dụng để chẩn đoán TiLV nhanh và chính xác tại các phòng thí nghiệm kiểm soát dịch bệnh thủy sản.

ntdinh
Theo Tạp chí nghề cá sông cửu Long, số 22/2022
In bài viết  
Bookmark
Ý kiến của bạn

Video  
 

Video

 



© Copyright 2020 Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ - Sở Khoa học & Công nghệ TP. Cần Thơ
Địa chỉ: 118/3 Trần Phú - Phường Cái Khế - Quận Ninh Kiều - thành phố Cần Thơ
Giấy phép số: 05/ GP-TTĐT, do Sở Thông tin và Truyền Thông thành phố Cần Thơ cấp ngày 23/5/2017
Trưởng Ban biên tập: Ông Vũ Minh Hải - Giám Đốc Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ - Sở Khoa học & Công nghệ TP. Cần Thơ
Ghi rõ nguồn www.trithuckhoahoc.vn khi bạn sử dụng lại thông tin từ website này
-->