Trong quá trình sản xuất giống các loài thủy sản, xác định tính ăn của cá bột là có ý nghĩa quyết định sự thành công của quá trình sản xuất. Có rất nhiều nghiên cứu về tính ăn của cá bột cũng như sự phát triển của ống tiêu hóa để chọn lựa loại thức ăn thích hợp ương cá. Trong sản xuất giống hiện nay, sử dụng thức ăn tươi sống để ương cá đang gặp phải những khó khăn như thức ăn tươi sống có thể mang mầm bệnh và đặc biệt là thiếu sự chủ động. Chính vì lý do này, nhiều nghiên cứu về thức ăn ban đầu đã được thực hiện nhằm xác định thời điểm có thể sử dụng thức ăn chế biến và loại thức ăn chế biến thích hợp. Nhiều nghiên cứu được thực hiện và ứng dụng thành công trong ương nuôi cá bột các loài cá trê Phi Clarias gariepinus, Heterobranchus longifilis(Appelbaum etal., 1988; Legendre et al., 1995), cá lóc Chana striata (Hiền và ctv., 2011), hay lươn đồng (Hiền, 2020). Trên các loài cá ăn động vật, nghiên cứu về tính ăn và phát triển ống tiêu hóa còn nhiều hạn chế, sử dụng thức ăn chế biến ởgiai đoạn sớm của cá bột thường dẫn đến tình trạng cá tăng trưởng kém và tỉ lệs ống thấp (Person-Le Ruyet et al.,1993; Tacon, 1990; Watanable & Kiron, 1994; Hiền và ctv., 2012). Nguyên nhân do ở giai đoạn cá bột, các loài cá chưa có dạ dày và thiếu các enzyme tiêu hóa (Cousin et al., 1987; Munilla-Muran et al., 1990) hoặc do thức ăn chế biến không kích thích sự bắt mồi của cá, làm giảm lượng thức ăn cá ăn vào (Appelbaum, 1985; Person-Le Ruyet et al., 1993)
Kết quả nghiên cứu của Hossain et al. (1990) cho thấy thức ăn trong dạ dày của cá thát lát chủ yếu là giáp xác (25,1%) và cá (17,4%), ngoài ra còn có côn trùng (15,0%), mùn bã hữu cơ (14,5%), mảnh thực vật (20,2%), tảo (0,40%), protozoans (0,11%), động vật thân mềm (0,47%) và khoảng 5,91% chất chưa được tiêu hóa. Theo Sarkar and Deepak (2009) và Perera and Weerakoon (2016), cá thát lát (Chitala ornata)là loài ăn thịt với thành phần thức ăn chủ yếu và cá, tôm, thân mềm và trứng cá. Tuy nhiên, các khảo sát được thực hiện hầu hết trên cá lớn, khi tính ăn của cá đã ổn định, mà chưa có nghiên cứu về loại thức ăn và sự phát triển ống tiêu hóa của cá thát lát còm giai đoạn cá bột nên việc nghiên cứu phổ thức ăn và sự phát triển ống tiêu hóa của cá thát lát còm giai đoạn sau khi nở đến 30 ngày tuổi là rất cần thiết nhằm làm cơ sở xây dựng công thức thức ăn cũng như xác định thời điểm chuyển đổi sang thức ăn chế biến phù hợp
Mẫu cá được thu vào ở các ngày tuổi 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 15, 20, 25 và 30. Căn cứ vào chiều dài ruột tương đối và chỉ số ưu thế thì cá thát lát còm là loài ăn động vật. Thành phần thức ăn trong ống tiêu hóa cá thát lát còm trong 30 ngày đầu gồm giáp xác chân chèo, giáp xác có vỏ, côn trùng và ấu trùng côn trùng. Thời điểm cá bắt đầu lấy thức ăn ngoài (5 ngày sau khi nở), cỡ miệng của cá là 1,20 ± 0,46 mm, lúc này ống tiêu hóa của cá được phân chia thành 4 phần gồm khoang miệng, thực quản, phần dạ dày và ruột. Ống tiêu hóa của cá thát lát còm phát triển hoàn chỉnh vào ngày tuổi thứ 8 với sự xuất hiện của các tuyến dạ dày. Sự thay đổi loại thức ăn ban đầu của cá thát lát còm có liên quan nhiều đến cỡ miệng hơn là quá trình phát triển ống tiêu hóa, sự chuyển đổi thức ăn chế biến cho cá thát lát còm phải thực hiện sau ngày tuổi thứ 8.
Qua kết quả nghiên cứu cho thấy, cá thát lát còm có tập tính ăn động vật; loại thức ăn chiếm ưu thếtrong thành phần thức ăn của cá trong 30 ngày tuổi đầu tiên là giáp xác chân chèo, giáp xác có vỏ, côn trùng và ấu trùng côn trùng. Ngày thứ 8 sau khi nở, dạ dày của cá thát lát còm mới phát triển hoàn chỉnh về chức năng vì vậy chỉ nên tập ăn thức ăn chế biến cho cá thát lát còm sau 8 ngày tuổi. |