Ảnh minh họa: Internet
Chi Thông nàng (Dacrycartus) thuộc họ Kim giao (Podocarpaceae). Trên thế giới, chi này có 9 loài, phân bố chủ yếu ở Myanma, Trung Quốc, Ấn Độ, Malaysia, New Ghi Lân. Ở Việt Nam, theo Nguyễn Tiến Hiệp, Nguyễn Đức Tố Lưu và Võ Văn Chi, chi này có 1 loài là Dacrycarpus imbricatus (syn. Podocarpus imbricatus Blume).
Thông nàng, Thông lông gà, là cây cao tới 35 m với đuờng kính ngang ngực tới 1 m. Cây mọc đứng với thân thẳng, ít cành nhánh, là loài cây vuợt tán rừng với tán lá rộng, hình vòm, các cành duới thấp mọc rủ. Vỏ màu nâu đỏ hoặc trắng ở phần trên của cây. Lá có hai dạng là lá trên cây già thực tế trở thành dạng vảy, xếp gối lên nhau, có gờ ở mặt lưng, hình tam giác dài, 1-3 x 0,4- 0,6 mm; lá non xếp thành hai dãy, gần hình dải, dạng lông chim, dài 6-17 mm rộng 1,2-2,2 mm, dần dần mất cách xếp hai dãy khi cây truởng thành. Nón cái đơn độc hay thành cặp 2 ở đỉnh nhánh con với lá biến đổi dạng lá bắc nhỏ dài 3 mm ở gốc, chỉ có một hạt hữu thụ, đế màu lục xám, khi chín màu đỏ. Nón đực hình trụ mọc ở nách lá, dài 1 cm. Hạt hình trứng, dài 0,5-0,6 cm.
Cây phân bố rộng từ Tuyên Quang, Lào Cai, Sơn La, Hoà Bình, Quảng Ninh, Ninh Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Lâm Đồng, Khánh Hoà. Trên thế giới cây phân bố ở Myanma, Trung Quốc, Lào, Malaysia, Philippin, Indonesia, New Guinea.
Cây mọc ở vùng đồi núi thấp đến trung bình, độ cao từ 500–1500 m, cây ưa sáng và ẩm, thường mọc thuần loại hay hỗ giao với một số cây lá kim như Kim giao Nam (Nageia wallichianus), Đỉnh tùng (Cephalotaxus mannii)… hay lá rộng thường xanh trên sườn núi, gần khe suối. Công dụng: Cây cho gỗ đẹp, nhẹ, dễ gia công, sử dụng làm đồ nội thất, bột giấy. Cây có thể trồng để phục hồi rừng và làm cảnh. Ở Vân Nam (Trung Quốc), cây được sử dụng làm thuốc trị sát trùng, tiêu thũng, chống ngứa.
Các thông tin trên thế giới về thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của loài Thông nàng trên thế giới hầu như rất ít. Mới chỉ có một số công bố nghiên cứu về đa dạng di truyền trong việc tách và nghiên cứu đặc điểm của các locus đa hình của loài này tại Trung Quốc. Theo Đặng Viết Hậu và cộng sự (2017), thành phần hóa học loài Thông nàng thu ở Lâm Đồng gồm 4 hợp chất được phân lập từ dịch chiết hexane của lá và cành loài này. Các hợp chất đó là spathulenol, và 3 diterpene gồm có palmitic acid, trans-communic acid, cis–communic acid, trong đó hợp chất palmitic acid có hoạt tính chống 2 dòng tế bào ung thư là KB (ung thư biểu mô miệng) và Hep G2 (ung thư biểu mô gan) với giá trị của IC50 là 173,8 và 99,6 µM. Theo Lưu Đàm Cư và cộng sự (2020), thành phần của tinh dầu Thông nàng bước đầu ghi nhận có 3 hợp chất α-pinen, βpinen và caryophyllene có mặt trong lá Thông nàng ở Tây Nguyên, nhưng không công bố hàm lượng tinh dầu của chúng và những hợp chất khác ra sao. Trong bài báo này, tác giả trình bày kết quả nghiên cứu thành phần hóa học của tinh dầu từ cành mang lá loài Thông nàng thu mẫu tại Khu bảo tồn thiên nhiên (KBT TN) Xuân Nha, Vân Hồ, Sơn La. Đây là các dẫn liệu về tinh dầu Thông nàng lần đầu tiên được ghi nhận ở Việt Nam.
Hàm lượng tinh dầu từ cánh mang lá Thông nàng (Dacrycarpus imbricatus (Blume) de Laub.) đạt 0,025% (theo nguyên liệu khô không khí). Tinh dầu là chất lỏng có màu vàng nhạt, nhẹ hơn nước. Bằng phương pháp sắc ký khối phổ (GC/MSD), đã xác định được 52 cấu tử của tinh dầu từ cành mang lá Thông nàng (chiếm 95,25% tổng lượng tinh dầu), 01 hợp chất chưa xác định (chiếm 1,67%). Những cấu tử chính của tinh dầu gồm: 3-methyl-valeric acid (6,09%), β-caryophyllene (5,51%), Germacrene D (39,35%), bicyclogermacrene (4,89%), T-muurolol (4,22%). Các dẫn liệu về thành phần hóa học của tinh dầu từ cành mang lá Thông nàng là ghi nhận mới ở Việt Nam. |