Ảnh minh họa: Internet
Loài Huyết dụ có tên khoa học là Cordyline fruticosa, tên đồng nghĩa là Cordyline terminalis, thuộc Chi Cordyline, họ Asparagaceae, vùng phân bố chủ yếu ở Đông Nam Á, Australia và New Zealand. Đây là loài thực vật được trồng phổ biến với mục đích chữa bệnh như tiểu ra máu, bệnh thận, khó tiểu tiện, ho, ho ra máu, kiết lỵ, sốt cao, đau đầu, viêm khớp và viêm nhiễm đường tiêu hóa. Ngoài ra, ở nhiều nơi, loài Huyết dụ còn được trồng với mục đích làm cảnh do màu sắc là đẹp, dễ phát triển, đồng thời nhiều loài thuộc chi Cordyline đã được lai tạo từ loài Huyết dụ với mục đích làm cảnh và thuốc chữa bệnh. Tại Việt Nam, loài Huyết dụ được trồng làm cảnh và là một loài cây dược liệu. Theo Đỗ Tất Lợi (2004), Huyết dụ là loài cây thân thảo, mọc tập trung thành từng đám, thân cây mảnh, nhỏ, nhiều đốt sẹo, gần như không phân nhánh và cao chừng 2m. Từ phần ngọn, lá mọc tập trung thành cụm, xếp thành 2 dãy. Mỗi phiến lá dài, có hình lưỡi kiếm, thuôn nhọn ở đầu, dài từ 20-50 cm, rộng khoảng 5-10 cm. Mép lá nguyên, không xẻ thùy, hai mặt màu đỏ tím tía, cuống lá dài. Khoảng tháng 12 hàng năm, cây ra hoa. Hoa huyết dụ xuất hiện thành từng cụm hoặc có thể phân nhánh thành nhiều cụm nhỏ, mọc ở ngọn thân, dài khoảng 30-40 cm. Mỗi bông hoa có màu trắng, bên ngoài màu tía, 3 lá đài, thuôn nhọn, 2 cánh hoa và hơi thắt lại ở giữa. Đến tháng 1, cây đậu quả, quả có hình cầu và mọng. Loài cây này được sử dụng làm thuốc cầm máu, chữa lỵ, lậu, xích bạch đới. Chi Cordyline là nguồn cung cấp các hợp chất có hoạt tính sinh học như kháng khuẩn, kháng oxy hóa và hoạt tính gây độc trên tế bào ung thư. Một số hợp chất cholestane glycoside đã được phân lập từ loài Huyết dụ. Trong nghiên cứu của Nguyễn Thị Hải Yến và cộng sự (2022), hai hợp chất saponin steroid đã được phân lập từ rễ của loài Huyết dụ. Với mục đích hoàn thiện cơ sở dữ liệu về sự phân bố của hợp chất saponin trong chi Cordyline nói chung và của loài Huyết dụ nói riêng, nghiên cứu tiếp tục tiến hành đánh giá hoạt tính sinh học của cao chiết từ lá của loài Huyết dụ (C. fruticosa), sau đó lựa chọn cao chiết có hoạt tính cao nhất để tiến hành phân lập và xác định cấu trúc của hợp chất saponin đơn lẻ.
Cao chiết ethanol-nước từ lá của loài Huyết dụ ở các nồng độ khảo sát 1,0 và 1,4 g/mL có hoạt tính kháng khuẩn mạnh đối với các loài vi khuẩn S. aureus, P. aeruginosa, L. plantarum, E. coli và C. freundii. Tuy nhiên, cao chiết ở nồng độ khảo sát 0,6 mg/L không có khả năng ức chế sự phát triển của vi khuẩn L. plantarum, E. coli và C. freundii. Nghiên cứu đã phân lập được một hợp chất saponin steroid từ cao chiết ethanol-nước nồng độ 1,4 g/mL bằng các phương pháp sắc ký khác nhau. Hợp chất này sau đó được đo phổ cộng hưởng từ hạt nhân và phổ khối lượng để làm sáng tỏ cấu trúc hóa học là 5α-spirost-(25)27-ene-1β,3β-diol 1-O-α-L-rhamnopyranosyl- (1→2)- α-L-arabinopyranoside. Nghiên cứu đề xuất cần tiếp tục tiến hành phân lập các hợp chất khác có trong cao chiết ethanol-nước từ lá của loài Huyết dụ, đặc biệt là thành phần saponin, và tiến hành đánh giá hoạt tính sinh học của các hợp chất này, góp phần hoàn thiện cơ sở dữ liệu về phân loại hóa thực vật của loài Huyết dụ nói riêng và chi Cordyline nói chung. |