Ảnh minh họa: Internet
Chàm mèo (Chàm nhuộm, Phẩm rô, Chàm lá to) có tên khoa học Strobilanthes cuisine (Nees) Kunte, thuộc họ Ôrô (Acanthaceae). Theo người dân bản địa, Chàm mèo còn được gọi bằng các tên khác như: Mạy ót (dân tộc Tày), Co Sơm (dân tộc Thái), Tần Gàm (dân tộc Dao). Cây Chàm mèo mọc hoang ở các thung lũng ẩm ướt, núi đá ở một số tỉnh miền núi phía Bắc như: Lào Cai, Lai Châu, Sơn La, Hà Giang, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên…. Bộ phận dùng làm thuốc là lá, thân và rễ. Trong y học cổ truyền, Chàm mèo có tính hàn, vị đắng nhạt, có tác dụng giải nhiệt, thải độc, chống viêm và cầm máu. Cây chàm mèo được dùng chữa các bệnh cấp tính như: sốt cao, chảy máu cam, chốc lở, viêm amidan, viêm đường hô hấp, ban đỏ, nhiễm khuẩn huyết,... Những nghiên cứu gần đây đã cho thấy, cây Chàm mèo có tác dụng tích cực trong điều trị bệnh ung thư máu và nhiều loại ung thư khác. Rễ chàm mèo (bản lam căn) còn dùng chữa viêm não truyền nhiễm, viêm não B, thương hàn, quai bị.
Chi Chàm mèo (Strobilanthes) gồm các loài thuộc loại thảo mộc và cây bụi có hoa lâu năm với khoảng 350 loài. Một số loài thuộc chi này đã được nghiên cứu như: Strobilanthes crispus, Strobilanthes ciliatus Nees, Strobilanthes cuisine Bremek, Strobilanthus callosus Nees và Strobilanthus ixiocephala Benth... Các tác giả tập trung chủ yếu vào một số hướng nghiên cứu như: đặc điểm hình thái, khu vực phân bố, thành phần hóa học, phân lập hợp chất và thử hoạt tính sinh học gồm tính kháng khuẩn, chống dị ứng, chống oxi hóa và ung thư. Tuy nhiên, các nghiên cứu về loài Strobilanthes cuisine (Nees) Kuntze còn hạn chế. Nghiên cứu của Rubani Shahni và cộng sự (2013) cho thấy, dịch chiết methanol từ lá của loài này có tác dụng kháng khuẩn thay đổi với các loại vi khuẩn khác nhau như: Hoạt tính kháng khuẩn tối ưu được quan sát thấy với Staphylococcus aureus, sau đó là Bacillus subtilis, Enterobacter aerogenes, Escherichia coli và Klebsiella pneumonia.
Ở Việt Nam, Nguyễn Mạnh Cường và cộng sự (2014) đã điều chế thành công bột chàm giàu indirubin từ lá cây Chàm mèo, từ đó đã tổng hợp và tinh chế được indirubin -3′- oxim từ bột chàm giàu indirubin. Nhóm nghiên cứu đã điều chế thành công thực phẩm chức năng Vindoxim có thành phần chính là indirubin -3′- oxim từ cây Chàm mèo, có tác dụng hỗ trợ tốt trong điều trị bệnh ung thư bạch cầu dòng tủy và lympho. Cao khô lá Chàm mèo đã được Viện Dược liệu bào chế thành viên Thanh đại để chữa rong kinh ở phụ nữ. Mặc dù, cây Chàm mèo có nhiều công dụng chữa bệnh nhưng theo kết quả điều tra năm 2017 của chúng tôi cho thấy, tỷ lệ người dân nhận diện được và biết sử dụng cây Chàm mèo để chữa bệnh vẫn rất hạn chế, kể cả người dân bản địa.
Qua các công bố trong nước và trên thế giới cho thấy, tác dụng sinh dược học của các loài thuộc chi Strobilanthes có ý nghĩa rất lớn với sức khỏe con người. Tuy nhiên, có rất ít nghiên cứu được công bố về loài Strobilanthes cuisine (Nees) Kuntze. Do đó, nghiên cứu này được tiến hành nhằm cung cấp các thông tin về đặc điểm hình thái và thành phần nhóm hợp chất có trong lá của loài Strobilanthes cuisine (Nees) Kuntze. Đồng thời, nghiên cứu cũng thu thập cách thức chế biến và cách sử dụng cây Chàm mèo để chữa bệnh của người dân bản địa tại tỉnh Bắc Kạn. Kết quả của nghiên cứu góp phần cung cấp dữ liệu phục vụ cho việc nhận diện loài khi thu thập mẫu, định danh loài, kiểm nghiệm dược liệu…
Cây Chàm mèo đã được mô tả chi tiết các đặc điểm hình thái như: lá, thân, rễ, hoa, quả. Người dân bản địa tại tỉnh Bắc Kạn có sự đa dạng trong cách chế biến và sử dụng cây Chàm mèo để chữa bệnh. Trong đó, lá được chế biến thành bột Thanh đại và cao Chàm mèo để sử dụng lâu dài, hòa nước uống hoặc bôi trực tiếp là cách dùng phổ biến nhất. Bằng phương pháp định tính thành phần hóa học cho thấy, lá cây Chàm mèo có chứa các nhóm hợp chất: Triterpenoid tự do, triterpenoid thủy phân, acid hữu cơ, coumarin, flavonoid, saponin, alkaloid và chất khử. |