Động vật thân mềm đang được xem là một trong những đối tượng nuôi ưu thế trong chiến lược phát triển nuôi biển của nước ta, do đó có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu về động vật thân mềm, trong đó nghiên cứu về sản xuất giống nhân tạo và phương pháp ương nuôi ấu trùng được quan tâm nhiều nhất (Nguyễn Xuân Thu, 2005; Nguyễn Quang Hùng và Hoàng Đình Chiều, 2009). Động vật thân mềm như nhuyễn thể được nuôi phổ biến ở Việt Nam trong những năm gần đây là nghêu Bến Tre, nghêu dầu, vẹm xanh, sò huyết, hàu Thái Bình Dương, ..., trong đó, Ngao móng tay chúa (NMTC) được coi là loài nuôi tương đối mới (Nguyễn Đức Minh, 2015). Ngao móng tay chúa (Cultellus maximus Gmelin, 1791) là đối tượng có giá trị kinh tế cao, hiện được chào bán giá 450.000 đồng/kg với cỡ 8-12 con/kg và chủ yếu được tiêu thụ trong hệ thống nhà hàng ăn uống. Tuy nhiên, nguồn NMTC tiêu thụ hiện nay chủ yếu đến từ việc đánh bắt tự nhiên và vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ trên thị trường. Vì vậy, việc phát triển nghề nuôi NMTC không chỉ giải quyết được vấn đề này mà còn góp phần cân bằng hệ sinh thái và ổn định môi trường ven biển. Nuôi thương phẩm NMTC hiện chưa có ở Việt Nam, tuy nhiên, một số đối tượng có đặc tính tương tự đã được đưa vào nuôi và đã thành công như nghề nuôi tu hài, nuôi móng tay dài cũng phát triển trong những năm gần đây ở vùng ven biển nước ta (Trần Thế Mưu và Vũ Văn Sáng, 2013; Trần Trung Thành, 2016). Trên thế giới, nuôi móng tay (Ensis arcuatus) ở Tây Ban Nha cho thấy móng tay phát triển tốt vào mùa xuân và mùa hè, nhưng không phát triển vào mùa thu và bị chết khi mưa nhiều (Costa và ctv., 2011). Trong khi đó thì nuôi trùng trục (Sinonovacula constricta) và các loài móng tay dày (Solen grandis) ở Trung Quốc có kết qủa khá tốt (Nguyễn Đức Minh, 2015). Theo Nguyễn Quang Hùng và Hoàng Đức Triều (2009) thì NMTC phân bố tự nhiên dọc theo các vùng bãi triều nông, chủ yếu ở vùng trung triều và hạ triều, nơi có địa hình bằng phẳng, độ sâu mực nước từ 2 - 6 m, có nền đáy là bùn mịn hoặc bùn cát giàu chất hữu cơ, độ mặn từ 18 - 30‰, nơi ít bị ảnh hưởng bởi sóng gió, rừng ngập mặn nơi có nguồn nước ngọt chảy vào từ Bà Rịa - Vũng Tàu đến Cà Mau. Kết quả điều tra qua khảo sát vùng ven biển Cà Mau của Nguyễn Quốc Thể (2016) cho thấy NMTC xuất hiện tại các điểm Gò Công, Rạch Tàu và Ông Trang nơi có chất đáy là bùn mịn và bùn cát. Mực nước nơi NMTC phân bố có độ sâu từ 4 - 10 m cách bờ từ 2 - 10 km. Số lượng NMTC trong tự nhiên đang có xu hướng giảm nhanh chóng và sản lượng khai thác NMTC cũng đã giảm theo thời gian (Nguyễn Đức Minh, 2021). Theo khảo sát ngư dân ở Cà Mau thì cách đây 7 - 8 năm, mỗi ngày người dân bắt được 6 - 8 kg, nhưng hiện nay chỉ khai thác được 2 - 3 kg/ ngày (Nguyễn Quốc Thể, 2016). NMTC là đối tượng thủy sản có giá trị kinh tế cao và cũng được coi là loài nuôi tương đối mới, do vậy việc phát triển sản xuất giống và nuôi thương phẩm là hết sức cần thiết. Nghiên cứu sản xuất giống NMTC đã bước đầu thành công bởi Nguyễn Quốc Thể (2016) và Nguyễn Đức Minh (2015; 2021); trong khi, Nguyễn Đức Minh (2021) đã lần đầu tiên đưa NMTC vào thử nghiệm nuôi thương phẩm trên bãi triều tại Cần Giờ và ghi nhận với mật độ thả 10 con/m2 thì sau 10 tháng đạt tỷ lệ sống 22% và cỡ NMTC thu hoạch đạt 20 con/kg. Tuy nhiên, các nghiên cứu kể trên còn có những hạn chế trong việc xác định mùa vụ để thu thập đàn NMTC bố mẹ trong tự nhiên, thiết kế điều kiện sống của NMTC bố mẹ trong điều kiện nhân tạo nuôi nhốt và điều kiện sống của NMTC trong giai đoạn ương giống và nuôi thương phẩm. Để có thông tin đầy đủ về tình hình khác thác NMTC, nghiên cứu này áp dụng phương pháp điều tra phỏng vấn hộ khai thác NMTC được tiến hành để đánh giá tình hình khai thác, một số đặc điểm phân bố và tập tính sống NMTC tại Cà Mau và Tp. HCM và qua đó bước đầu đề xuất giải pháp kỹ thuật cần quan tâm khi phát triển sản xuất giống và nuôi thương phẩm đối tượng này ở nước ta
Ngao móng tay chúa (NMTC) là đối tượng thủy sản có giá trị kinh tế cao và cũng được xem là loài nuôi tương đối mới và tiềm năng. Nghiên cứu này với mục tiêu đánh giá thực trạng khai thác, một số đặc điểm môi trường sống và phân bố NMTC tại Cà Mau và Thành phố Hồ Chí Minh (Tp.HCM) và đề xuất giải pháp kỹ thuật cần quan tâm khi phát triển sản xuất giống và nuôi thương phẩm đối tượng này. Áp dụng phương pháp điều tra nông hộ khai thác để thu thập thông tin và số liệu nghiên cứu. Từ tháng 3 đến tháng 5/2019 đã tiến hành điều tra phỏng vấn hộ khai thác NMTC bằng phiếu điều tra soạn sẵn. Tổng số đã lựa chọn được 38 hộ khai thác NMTC để phỏng vấn, trong đó 26 hộ tại Cà Mau và 12 hộ tại Tp. HCM. Sử dụng phương pháp thống kê mô tả để phân tích số liệu, trình bày và diễn giải số liệu khảo sát. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy NMTC được khai thác quanh năm nhưng tập trung cao vào thời gian tháng 4-6 tại vùng nghiên cứu, và được khai thác ở vùng phân bố gần bờ nhất là 2,54 km và xa bờ nhất là 18,04 km, vùng có độ sâu mức nước cạn nhất là 1,15 m và sâu nhất là 10 m. NMTC được khai thác và bắt gặp sống trong hang đất với độ sâu hang từ 31,67 - 94,23 cm. NMTC phân bố theo bề mặt đáy bằng phẳng là chính. NMTC khai thác kích thước nhỏ sống ở nền đáy có cơ cấu tỷ lệ bùn nhiều hơn hoặc bằng tỷ lệ cát; trong khi, NMTC khai thác kích thước lớn và trung bình thì tỷ lệ giữa cát và bùn phụ thuộc vào điều kiện khu vực khai thác. NMTC được khai thác ở Cà Mau có kích cỡ khai thác trung bình là 22 con/kg, khối lượng ghe bắt trung bình mỗi ngày là 3,65 ± 2,07 kg/ghe/ngày; trong khi, ở Tp. HCM cỡ NMTC khai thác trung bình 13 con/kg, khối lượng mỗi ghe khai thác theo ngày là 2,50 ± 1,22 kg/ghe/ngày. Qua nghiên cứu đã cho thấy, thời điểm khai thác NMTC tập trung cao chính là thời điểm thích hợp cần tiến hành thu thập nguồn NMTC bố mẹ để thuần dưỡng và nuôi vỗ để phục vụ cho việc sản xuất giống. Bên cạnh đó, khi phát triển đưa NMTC vào nuôi thương phẩm thì việc thiết kế điều kiện sống cho NMTC là rất quan trọng, trong đó việc thiết kế hang đất, nền đáy ao nuôi NMTC cần được chú trọng thực hiện để đảm bảo điều kiện tốt cho NMTC sinh trưởng và phát triển
|