Cá rô phi là loài cá có giá trị kinh tế, thương mại và dinh dưỡng quan trọng. Sản lượng cá rô phi tăng tỷ lệ thuận theo thời gian trong khoảng 30 năm qua kể từ năm 1992. Năm 2019, sản lượng đạt 6,5 triệu tấn, tăng 4% so với năm 2018 và dự kiến tăng lên 7,3 triệu tấn vào năm 2030. Cá rô phi là đối tượng nuôi thủy sản có nhiều ưu điểm như sinh trưởng nhanh, dễ nhân giống, có thể sinh trưởng và phát triển ở biên độ giao động môi trường lớn (nhiệt độ, độ mặn), dễ chuyển đổi thức ăn bổ sung, song còn hạn chế như dịch bệnh vẫn diễn ra trong quá trình nuôi, đặc biệt là bệnh Streptococcosis. Bệnh Streptococcosis xuất hiện phổ biến trong vụ nuôi với tỷ lệ tử vong cao, gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế, ảnh hưởng đến sản lượng cá rô phi trên toàn thế giới. S. agalactiae là loài vi khuẩn phổ biến nhất gây bệnh Streptococcosis với tỷ lệ lưu hành chiếm 40-70% ở cả cá giai đoạn giống và thương phẩm, với tỷ lệ gây chết lên đến 90-100%. Biểu hiện chính bắt gặp cá nhiễm S. agalactiae là cá giảm ăn, bơi không định hướng, bơi vòng tròn, đục mắt, lồi mắt, giải phẫu nội tạng ghi nhận gan, lách sưng, bụng tích nhiều dịch lỏng. Bệnh xuất hiện ở cá khi có sự tương tác giữa động vật thủy sản, mầm bệnh (tác nhân) và môi trường sống (nước).
Đồng thời mất cân bằng giữa 3 yếu tố này như cá yếu, giảm sức đề kháng, mật độ mầm bệnh gia tăng hay điều kiện môi trường bất lợi. Một số yếu tố môi trường bất lợi có vai trò ý nghĩa gây bùng phát bệnh Streptococcosis ở cá như nhiệt độ, DO, NH3, NO2-N, H2S, mật độ Streptococcus sp., độ kiềm, độ mặn... Cá rô phi nhiễm bệnh do S. agalactiae gây ra thì điều kiện bắt buộc là sự hiện diện của S. agalactiae trong môi trường nước và sự xâm nhiễm của vi khuẩn này vào cơ thể cá. S. agalactiae khi có mặt trong môi trường nước sẽ nhanh chóng nhiễm lên vật chủ (cá) sống trong cùng môi trường và nhân tế bào lên ở da, đặc biệt ở cơ quan nội tạng với tỷ lệ cao (71,2%). Streptococcussp có thể tồn tại trong thời gian dài trong nước, bùn ao, thậm chí ở cả các thiết bị/dụng cụ được sử dụng trong các hoạt động nuôi/sản xuất. Vì vậy, mục đích của nghiên cứu này nhằm xác định ngưỡngmật độ S. agalactiae trong nước gây cá rô phi nhiễm bệnh Streptococcosis và một số yếu tố môi trường có liên quan như nhiệt độ, DO, pH, NH3, NO2-N. Kết quả nghiên cứu là cơ sở khoa học có ý nghĩa giúp xác định thời điểm áp dụng giải pháp kỹ thuật đểgiảm thiểu mật độ S. agalactiae cũng như cải thiện chất lượng môi trường nhằm hạn chế bùng phát bệnh.
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 4/2021 đến tháng 9/2021 trên 108 mẫu cá thương phẩm và 108 mẫu nước ao nuôi cá rô phi nước ngọt (54 mẫu tại các ao cá không có biểu hiện bệnh lý và 54 mẫu tại các ao cá có biểu hiện bệnh lý) ở tỉnh Hải Dương. Mẫu được phân tích tại Trung tâm Quan trắc Môi trường và Bệnh thủy sản miền Bắc, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I.
Kết quả cho thấy, cá rô phi bệnhdo S. agalactiaecó biểu hiện bệnh lý điển hình khi ngưỡng mật độS. agalactiae trong gan cá và nước ao nuôi dao động lần lượt trong khoảng 1,1x107-2,9x108 cfu/g và 1,0x103-1,2x104 cfu/ml. Cá nhiễm S. agalactiae nhưng không có biểu hiện bệnh lý khi ngưỡng mật độ S. agalactiaetrong gan cá và nước dao động trong khoảng 1,3x103-9,6x105 cfu/g và 2,3x101-8,3x101 cfu/ml. Mật độ S. agalactiaetrong nước, nhiệt độ, NH3 và pH ảnh hưởng đến mật độS. agalactiae trong cá. Xác suất bệnh xảy ra lớn nhất là 98,3% khi mật độ S. agalactiae trong nước ≥103 cfu/ml, tiếp đến 71,4% khi nhiệt độ ≥31oC, 25,9% khi NH3>0,1 mg/l, 14,01% khi NO2-N>0,05 mg/lvà thấp nhất là 0,07% khi DO<4 mg/l.
|