Các ngư cụ sử dụng để khai thác thủy sản ở vùng nội địa vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) gồm hơn 120 loại ngư cụ khai thác thủy sản (KTTS) đã được miêu tả và phân chia thành 13 nhóm (Nguyễn Nguyễn Du và ctv., 2006). Hầu hết các loại ngư cụ KTTS đều rất thô sơ và ngư dân có thể tự chế tạo. Nghề KTTS nội địa mang đặc tính quy mô nhỏ nhưng đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm và cung cấp thực phẩm hàng ngày cho người dân địa phương. Tuy đa dạng về ngư cụ, nhưng ngư cụ chủ yếu của nghề khai thác thủy sản nội địa là bằng lưới bén và lưới ba màng. Tuy nhiên, sản lượng khai thác từ nghề lưới bén hiện tại thu được ít loài cá, kém đa dạng thành phần loài và đa dạng kích cỡ cá, và hạn chế độ phong phú về sản lượng bởi đặc thù chính của chúng là mang tính chọn lọc cao với kích thước mắt lưới nhất định. Lưới bén được sử dụng rất hữu ích cho việc theo dõi thường xuyên các quần thể cá vì tương đối dễ sử dụng và chi phí tương đối thấp. Loại lưới này có thể được sử dụng ở nhiều độ sâu và có thể được sử dụng ở vùng nước nông - nơi hầu hết các dụng cụ khai thác khác không thể sử dụng được. Do tính chọn lọc của loại lưới bén hiện tại (LBTT), nên các nghiên cứu gần đây của Ủy hội sông Mê Công Việt Nam và Quốc tế đã phải phối hợp với nhiều ngư dân sử dụng lưới bén với nhiều loại kích thước mắt lưới khác nhau tại một địa điểm để theo dõi và thu thập dữ liệu về các yếu tố khác nhau của quần thể cá (đa dạng sinh học đối với các loài cá). Để khắc phục những hạn chế hiện nay của việc sử dụng LBTT trong nghiên cứu đánh giá sản lượng KTTS, một loại lưới bén đa kích cỡ (LBCT) gồm nhiều mảnh với nhiều mắt lưới sẽ được sử dụng tốt hơn trong nhiều trường hợp. Lưới bén đa kích cỡ đã được sử dụng rộng rãi ở nhiều quốc gia và đã được sử dụng thành công ở lưu vực sông Mê Công trong các nghiên cứu về đánh giá các tác động ảnh hưởng (Arthur và ctv., 2010, Lorenzen và ctv., 1998), dựa vào khả năng bắt được nhiều loài và cường lực khai thác (CPUE) của chúng có tương quan với sinh khối thực tế của cá trong thủy vực. Chính vì vậy, việc nghiên cứu thử nghiệm sử dụng lưới bén đa kích cỡ này được áp dụng thực hiện tại một số thủy vực ở ĐBSCL để kiểm chứng hiệu quả của việc sử dụng loại lưới này so với lưới bén hiện tại về mức độ đa dạng loài, đa dạng kích cỡ cá và cường lực khai thác nhằm góp phần giảm thiểu chi phí trong quan trắc nguồn lợi thủy sản.
Lưới bén hiện tại thông thường chỉ sử dụng một loại kích thước mắt lưới nhất định khi hoạt động, do vậy sản lượng đánh bắt được là các loài cá có kích cỡ tương đồng nhau, chưa thể hiện được sự đa dạng cao về thành phần loài và kích cỡ loài đánh bắt. Nghiên cứu thử nghiệm sử dụng lưới bén đa kích cỡ mắt lưới để đánh giá mức độ đa dạng cá so với lưới bén hiện tại ở Đồng bằng sông Cửu Long được thực hiện từ tháng 1 – 6/2021 tại 5 trạm nghiên cứu dọc sông Tiền và sông Hậu ở các vùng sinh cảnh dòng chính, vùng cửa sông ven biển và nội đồng ngập lũ. Lưới bén đa kích cỡ được cấu tạo gồm 14 mảnh lưới có kích cỡ mắt lưới từ 20 – 150mm (20, 30, 40, 40, 60, 70, 80, 90, 100, 110, 120, 130, 140, và 150mm), chiều dài và chiều cao của mỗi mảnh lưới là 8m và 2,5m, được kết nối một cách ngẫu nhiên tạo thành tấm lưới có chiều dài 112m. Thời gian thu mẫu mỗi tuần 1 lần vào thời điểm con nước đứng được thực hiện tại tất cả các trạm nghiên cứu và 5 người dân (1 người/trạm nghiên cứu) được lựa chọn để thực hiện công việc đánh bắt ngoài thực địa. Mẫu cá khai thác được phân loại theo loài, cân, đo, đếm và sử dụng phần mềm Microsoft Excell 2019 và Primer 6 để phân tích thống kê các chỉ số đa dạng sinh học cá. Kết quả nghiên cứu đã xác định có 51 loài cá tôm các loại được đánh bắt, sản lượng khai thác trung bình tại các khu vực đánh bắt dao động từ 0,81 – 1,12 kg/ngày/trạm, cường lực khai thác trung bình đạt 0,58 kg/giờ/100m2 lưới, chỉ số đa dạng Shannon-Weiner (H’) = 2,85. So sánh với loại lưới bén hiện tại, lưới bén đa kích cỡ có giá trị chỉ số đa dạng loài, đa dạng kích cỡ cá và cường lực khai thác cao hơn so lưới bén hiện tại. Có thể thay thế lưới bén đa kích cỡ trong việc nghiên cứu quan trắc sản lượng khai thác thủy sản hàng ngày sẽ giảm thiểu được nhiều chi phí để thuê nhiều ngư dân tham gia quan trắc trong thời gian dài.
|