Ảnh minh họa
Ngao móng tay chúa Cultellus maximus (Gmelin, 1791), là một loài thân mềm hai mảnh vỏ thuộc họ Pharidae. Chúng thường phân bố ở các nước nhiệt đới, cụ thể là ở các vịnh có nước ngọt chảy vào các bãi triều có đáy là cát hoặc bùn mịn, giàu chất hữu cơ, hoặc những nơi ít ảnh hưởng của sóng gió như trong rừng ngập mặn. Ở nước ta, ngao móng tay chúa chủ yếu tập trung nhiều tại vùng ven biển từ Thành phố Hồ Chí Minh đến Cà Mau. Ngao móng tay chúa có hình dáng thon dài như ngón tay, kích thước lớn, tỷ lệ thịt nhiều. Tỷ lệ thịt của chúng đạt 50-70% trọng lượng của cơ thể. Ngoài ra, thịt trắng, ngọt, chứa nhiều đạm, cùng các khoáng chất như canxi, sắt và các axit amin thiết yếu (Trần Trung Thành, 2018). Hiện nay, nguồn thương phẩm ngao móng tay chúa chủ yếu được đánh bắt từ tự nhiên và vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ của thị trường. Việc khai thác tự nhiên làm số lượng loài này đang giảm nhanh chóng. Vì vậy, việc phát triển nghề nuôi ngao móng tay chúa vừa giảm áp lực khai thác từ tự nhiên, vừa góp phần phát triển kinh tế. Đồng thời, với ưu thế thuận lợi về diện tích bãi nuôi và còn là vùng phân bố tự nhiên của đối tượng này, khu vực biển Cần Giờ nói riêng và ven biển các tỉnh Nam Bộ nói chung có tiềm năng cao để phát triển thành công nghề nuôi thương phẩm. Chính vì thế, việc nghiên cứu xác định các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả nuôi ngao móng tay chúa thương phẩm là cần thiết. Nghiên cứu này sẽ trình bày kết quả thử nghiệm nuôi ngao móng tay chúa trên bãi triều, với các mật độ thả giống khác nhau nhằm xác định mật độ thả phù hợp nhất cho giai đoạn nuôi thương phẩm.
Nghiên cứu này nhằm đánh giá ảnh hưởng của mật độ nuôi đến sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của ngao móng tay chúa (Cultellus maximus) ở giai đoạn nuôi thương phẩm. Thí nghiệm được tiến hành ở mật độ 10, 20 và 30 cá thể/m2 với ba lần lặp lại ở mỗi mật độ. Những cá thể ngao móng tay chúa giống có chiều dài ban đầu là 3,1±0,8 cm (trọng lượng 1,34±0,19 g/cá thể). Sự tăng trưởng về trọng lượng sống và chiều dài vỏ được đo hàng tháng ở ba nghiệm thức. Các thông số chất lượng nước như nhiệt độ, độ mặn, pH, NO2 , NO3 , NH3 /NH4 , kH và H2 S đều nằm trong ngưỡng thích hợp cho sự phát triển của động vật thân mềm hai mảnh vỏ. Sau 12 tháng nuôi, kết quả cho thấy chiều dài cá thể ngao móng tay chúa lớn nhất là 11,3±0,4 cm và trọng lượng trung bình là 49,17±0,82 g đạt được ở nghiệm thức 10 cá thể/m2 và đồng thời tỷ lệ sống cao nhất cũng thuộc về nghiệm thức này, đạt 22±2%. Kết quả của nghiên cứu này cho thấy, mật độ nuôi ngao móng tay chúa (C. maximus) ở giai đoạn nuôi thương phẩm nên được áp dụng ở mức 10 cá thể/m2 nhằm đảm bảo tốc độ sinh trưởng, tỷ lệ sống tốt nhất. Tuy nhiên, cần có các nghiên cứu sâu hơn ở các địa điểm khác nhau để đảm bảo hiệu quả của mật độ thả ở từng vùng. Kết quả từ nghiên cứu này cung cấp một tiêu chuẩn tham khảo cho người nuôi và cho các nghiên cứu trong tương lai.
Mật độ nuôi ảnh hưởng nhiều đến tỉ lệ sống trong khi tác động ít hơn đến tốc độ tăng trưởng của ngao móng tay chúa (C. maximus) ở giai đoạn nuôi thương phẩm, tỉ lệ sống và tốc độ sinh trưởng tỉ lệ nghịch với mật độ nuôi. Với mật độ 10 con/m2 , từ trọng lượng (1,34±0,19 g/ cá thể) sau 12 tháng nuôi đạt49,2±0,82 g/con, với tỷ lệ sống trung bình 22%. Vì vậy, mật độ 10 con/m2 có thể được sử dụng từ kích thước chiều dài 3 cm để duy trì tỷ lệ sống tốt cũng như tốc độ tăng trưởng. |