Nông - Lâm - Ngư nghiệp [ Đăng ngày (05/10/2022) ]
Ảnh hưởng của mật độ, chế độ ăn và điều kiện ánh sáng lên tăng trưởng, tỷ lệ sống của cá tra(Pangasianodon hypophthalmus) ương trên bể
Nghiên cứu: “Ảnh hưởng của mật độ, chế độ ăn và điều kiện ánh sáng lên tăng trưởng, tỷ lệ sống của cá tra(Pangasianodon hypophthalmus) ương trên bể” do nhóm tác giả: Trần Hữu Phúc, Nguyễn Văn Sáng , Hà Thị Ngọc Nga , Võ Thị Hồng Thắm thực hiện.

Quy trình ương cá tra bột lên hương trên bể đạt tỷ lệ sống cao là một giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất, góp phần xây dựng chuỗi sản xuất hàng hóa ổn định cho ngành hàng cá tra, đặc biệt là trong các điều kiện môi trường bất thuận. Hiện nay thông tin nghiên cứu về kết quả thử nghiệm ương cá tra từ cá bột lên cá hương trên bể còn nhiều hạn chế, đặc biệt là ở quy mô sản xuất và giai đoạn cá sử dụng thức ăn tự nhiên trước khi chuyển sang ăn hoàn toàn bằng thức ăn công nghiệp. Trong giai đoạn đầu này thì mật độ ương nuôi ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ sống của cá, theo đó tỷ lệ sống đạt cao hơn tương ứng với mật độ ương nuôi thấp hơn trong các nghiên cứu trước đây (Hechtand Appelbaum,1988; Slembrouck và ctv., 2009; Baras,1999; Baras and d’Almeida, 2001; Nguyễn Thị Đang, 2011; Nguyễn Văn Sáng và ctv., 2018; Phạm Thanh Liêm và ctv., 2020). Theo Nguyễn Thị Đang (2011) và Nguyễn Văn Sáng và ctv. (2018) cá nuôi ở mật độ 2.000 con/m2 – 4.500 con/m2 và được cho ăn Artemia trong 4-6 ngày đầu với lượng 9RFL, đạt tỷ lệ sống 22,6% - 42,9% sau 21 ngày ương. Đối với chế độ cho ăn, một số tác giả cũng đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao tỷ lệ sống của cá tra ở giai đoạn này như tăng số lượng Artemia với lượng 9RFL trong bể ương và số ngày cho ăn liên tục trong 4, 6 và 8 ngày đầu của quá trình ương (Slembrouck và ctv., 2009; Nguyễn Thị Đang, 2011; Nguyễn Văn Sáng và ctv., 2018), bên cạnh đó những nghiên cứu về cung cấp đủ số lượng, với các loại thức ăn tự nhiên phù hợp cỡ miệng cá khác như luân trùng, Moina và phiêu sinh vật khác (Phạm Thị Hồng và ctv., 2012; Ân Văn Hóa, Vũ Ngọc Út, 2018; Trần Văn Hương và ctv., 2018; Phạm Thanh Liêm và ctv., 2020) cũng làm tăng tỷ lệ sống của cá ở giai đoạn đầu. Đối với môi trường ương, nghiên cứu che tối bể ương (đảm bảo ánh sáng ở cường độ 0,1 lux) của Mukai (2011) cho kết quả tỷ lệ sống cao hơn bể ương có ánh sáng 100 lux, bên cạnh các nghiên cứu về sục khí bão hoà trên 90% và hàm lượng oxy hoà tan trên 6,4 mg/lít; nhiệt độ ương phù hợp là 310 C (Baras và ctv., 2011a) cũng tác động trực tiếp đến tỷ lệ sống trong ương nuôi cá tra ở giai đoạn trước 10 ngày tuổi. Vì vậy, trong nghiên cứu này, các yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá bột như mật độ cao, chế độ cho ăn thức ăn tự nhiên, thức ăn công nghiệp và điều kiện chiếu sáng được khảo sát nhằm tìm giải pháp nâng cao tỷ lệ sống cá tra ở giai đoạn 10 ngày tuổi đầu, trong điều kiện ương trên bể, với điều kiện môi trường kiểm soát được.

Tỷ lệ sống và tăng trưởng của cá 10 ngày tuổi, ương trên bể xi măng 24 m2 , được đánh giá qua ba thí nghiệm về mật độ ương, chế độ cho ăn và điều kiện ánh sáng của bể ương. Thí nghiệm được thực hiện ở (1) hai mật độ khác nhau 2.500 con/m2 (MĐ1) và 5.000 con/m2 (MĐ2) ở điều kiện thức ăn TA1, (2) hai thời điểm chuyển đổi thức ăn tự nhiên được khảo sát là TA1 (cho cá ăn Artemia 4 ngày) và TA2 (cho cá ăn Artemia 2 ngày) ở cùng MĐ2, và (3) hai nghiệm thức về điều kiện ánh sáng bể ương CT (che tối hoàn toàn bể ương) và KCT (không che tối hoàn toàn) được đánh giá trong điều kiện mật độ MĐ2 và TA2. Mỗi nghiệm thức được lặp lại ở 3 bể ương và bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên. Lượng thức ăn tự nhiên, quản lý chỉ tiêu thuỷ lý hoá và kiểm tra mầm bệnh thực hiện giống nhau ở các bể thí nghiệm. Số liệu được phân tích ANOVA trên phần mềm R. Về tăng trưởng, 2 yếu tố mật độ và thời điểm chuyển đổi thức ăn tự nhiên ảnh hưởng có ý nghĩa thống kê lên chiều dài và khối lượng của cá ở ngày tuổi thứ 7 và 10. Ở mật độ ương MĐ1 và lượng thức ăn công nghiệp TA1, cá tăng trưởng tốt nhất về chiều dài (14,9 cm) và khối lượng (25,3 mg/con) ở 7 ngày tuổi, và đạt 16,7 mm và 60,1 mg/con, tương ứng ở 10 ngày tuổi. Kết quả cho thấy tỷ lệ sống đạt cao (71,8 – 81,6%) và khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa các nghiệm thức cho cả 3 thí nghiệm mật độ, thời điểm chuyển đổi thức ăn và điều kiện ánh sáng, tỷ lệ sống đạt cao nhất (81,6%) ở nghiệm thức MĐ2-TA2-CT.

Các chỉ tiêu thủy lý hóa của môi trường nước trong suốt thời gian thí nghiệm nhìn chung không sai khác giữa các bể ương và nằm trong khoảng cho phép đối với cá tra, cụ thể pH dao động 7,5 – 8,0; độ kiềm 73-85 mg CaCO3 /l; DO dao động từ 4,5 – 5,2 mg/l; NH3 dao động 0,04 – 0,05 mg/l, riêng chỉ tiêu NO2 (trung bình 1,1– 1,8 mg/l) cao vượt mức cho phép trong ao nuôi cá tra (0,01 – 1,0 mg/l, theo Trương Quốc Phú (2000) và Lê Như Xuân và Phạm Minh Thành (1994) nhưng không ảnh hưởng gây chết cá và thấp hơn so với nghiên cứu về ngưỡng gây chết LD50-96 giờ của NO2 -N trên cá tra giống (15-20 g) là 75,6 mg/l.

ntdinh
Theo Tạp chí nghề cá sông cửu long số 20/2021
In bài viết  
Bookmark
Ý kiến của bạn

Video  
 

Video

 



© Copyright 2020 Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ - Sở Khoa học & Công nghệ TP. Cần Thơ
Địa chỉ: 118/3 Trần Phú - Phường Cái Khế - Quận Ninh Kiều - thành phố Cần Thơ
Giấy phép số: 05/ GP-TTĐT, do Sở Thông tin và Truyền Thông thành phố Cần Thơ cấp ngày 23/5/2017
Trưởng Ban biên tập: Ông Vũ Minh Hải - Giám Đốc Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ - Sở Khoa học & Công nghệ TP. Cần Thơ
Ghi rõ nguồn www.trithuckhoahoc.vn khi bạn sử dụng lại thông tin từ website này
-->