Cỏ lồng vực nước thuộc nhóm thực vật C4, kích thước lớn, thích hợp nơi đất ẩm, giàu đạm, có mặt rộng khắp ở các vùng trồng lúa nước, khả năng cạnh tranh cao về dinh dưỡng, nước, ánh sáng... với cây lúa, ảnh hưởng rõ rệt đến năng suất, thậm chí có thể làm giảm đến 100% năng suất lúa.
Tính kháng thuốc diệt cỏ có tác động tiêu cực đến sản xuất mà một trong những nguyên nhân quan trọng là sử dụng cùng một loại thuốc diệt cỏ trong nhiều mùa vụ. Tại Brazil, cỏ lồng vực nước thể hiện tính kháng với hoạt chất imidazilinone 81% (624 mẫu) và quinclorac 19%. Một nghiên cứu cho thấy, cỏ lồng vực nước có thể kháng nhiều loại hoạt chất như: bispyribac-sodium, quinclorac, metamifop... . Cỏ lồng vực nước (An Giang, Kiên Giang, Vĩnh Long) thể hiện tính kháng thuốc ở liều khuyến cáo với hóa chất quinclorac (9/15 mẫu).
Do có khả năng ức chế sinh trưởng và phát triển của cỏ dại, không ảnh hưởng đến môi trường cũng như sức khỏe con người, các chất chuyển hóa thứ cấp từ thực vật đã và đang có xu hướng được sử dụng nhiều trong sản xuất. Allelopathy là một cơ chế đối kháng thực vật diễn ra trong cây, các chất hóa học được gọi là allelochemicals (CĐK) do cây sinh ra sẽ tác động đến sự phát triển của một số loài cây khác bao gồm cả cỏ dại. Những chất này được phóng thích từ thực vật vào đất bằng cách tiết ra từ rễ hoặc từ sự phân hủy các mô thực vật.
Một số công trình nghiên cứu trên thế giới khẳng định, các loài cây họ cúc chứa CĐK như Alpha-terthienyl (α-T) trong rễ cây vạn thọ (Tagetes erecra), phenylheptatriyne (PHT) từ lá cây cúc áo (Bidens pilosa L.) ức chế nảy mầm cỏ ba lá (Trifolium pratense), cỏ đuôi mèo (Phleum pratense); hợp chất phenolic từ cây hướng dương, terpenoides từ lá cây hướng dương khô trong dung môi CH2Cl2 ức chế lúa mì (Triticum aestivum L. cv. Duro); dehydrocostus lactone, costunolide, 15-isovaleroyloxycostunolide trong cây sao nháy ức chế cỏ lồng vực nước và cây rau dền (Amaranthus hypochondriacus); dịch trích cây hướng dương ức chế cây mù tạt (Brassica kaber), cải dại (Sinapis arvensis), cỏ đuôi chồn (Setaria viridis); dịch trích cây dã quỳ ức chế cây bắp (Zea mays L.), lúa; dịch trích cây sài đất ức chế cây rau dền (Alternanthera philoxeroides), cỏ hôi (Eragrostics cilianesis), lúa (Oryza sativa L.), cỏ gà (Cynodon dactylon) và cỏ Bahia (Paspalum notatum) - một loài cỏ bản địa ở Mexico; dịch trích của cây cúc nhám ức chế cây bắp; dịch trích sao nháy có khả năng làm giảm tỷ lệ nảy mầm, chiều dài rễ hoặc thân mầm cây lúa mì, cỏ ba lá, cỏ lúa mạch (Lolium multiflorum), cải bẹ xanh, cà chua Tomatillo (Physalis ixocarpa) và củ cải (Raphanus sativus).
Cho tới nay, Việt Nam vẫn chưa có công trình khoa học nào về phân loại tính đối kháng cỏ dại trong các loài cây trồng thuộc họ cúc nên nghiên cứu vấn đề này để làm cơ sở cho việc phân lập và định danh các CĐK, ứng dụng CĐK trong phòng trừ sinh học cỏ lồng vực nước trong ruộng lúa là rất cần thiết.
Cây vật liệu dùng trong nghiên cứu là dã quỳ, sài đất, cúc nhám, hướng dương, sao nháy và vạn thọ được thu tại Cần Thơ và Vĩnh Long vào giai đoạn ra hoa.Cây thử nghiệm: hạt cỏ lồng vực nước, cỏ lồng vực cạn được thu từ ruộng thực nghiệm của Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu Long. Cải bẹ xanh, sử dụng như là loài so sánh được lấy giống từ Công ty TNHH thương mại Trang Nông (xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, TP Hồ Chí Minh). Các loại hóa chất, thiết bị và dụng cụ thí nghiệm có nguồn gốc rõ ràng và được phép sử dụng trong các phòng thí nghiệm.
Qua thời gian thực hiện, kết quả cho thấy, dịch trích 6 loài cây họ cúc có khả năng ức chế chiều dài thân và rễ cỏ lồng vực nước, cải bẹ xanh ở mức độ khác nhau, trong đó dịch trích từ cây sao nháy cho kết quả ức chế ổn định nhất. Ở nồng độ 0,03 g/ml, dịch trích này ức chế chiều dài thân, rễ cây cải bẹ xanh là 23,01 và 56,45%; cỏ lồng vực nước là 8,5 và 36,35%. Ở nồng độ 1 g/ml, dịch trích cây sao nháy ức chiều dài thân cải bẹ xanh và cỏ lồng vực nước lần lượt là 97,54 và 88,15%, chiều dài rễ lần lượt là 93,52 và 99,99%. Hàm lượng phenolic tổng của dịch trích cây sao nháy, sài đất, hướng dương, dã quỳ, vạn thọ và cúc nhám lần lượt là 4,51, 3,96, 1,05, 1,45, 3,61 và 0,99 mg/g; hàm lượng flanovoid tổng tương ứng là 1,58, 0,76, 0,29, 0,39, 0,65 và 0,45 mg/g. Như vậy, dịch trích từ cây sao nháy có triển vọng cao để ứng dụng trong việc phòng trừ cỏ lồng vực nước bằng biện pháp sinh học, an toàn với môi trường. |