Chăn nuôi đã từ lâu đóng vai trò quan trọng trong chiến lược sinh kế của các hộ dân nông thôn ở Châu Phi và Châu Á. Tuy nhiên, chỉ trong những năm gần đây, người ta mới chú ý hơn đến vai trò của vật nuôi trong các hộ gia đình nông thôn.
Ngành chăn nuôi của Việt Nam từ lâu đã là một bộ phận gắn kết chặt chẽ với cây trồng trong kinh tế hộ gia đình. Điểm mạnh của chăn nuôi nông hộ là: Sự kết hợp với trồng trọt như vậy nó có thể sử dụng tốt hơn các nguồn thức ăn có sẵn tại địa phương, tạo ra sự quay vòng về năng lượng. Đòi hỏi đầu tư thấp và là ngành sản xuất đa dạng có thể hạn chế tối đa sự rủi ro. Có thể tạo ra nhiều công ăn việc làm cho lao động ở nông thôn, đóng góp lớn lao vào công cuộc xóa đói giảm nghèo. Điểm yếu của chăn nuôi nông hộ là: Phân tán, nhỏ lẻ, khối lương sản phẩm không lớn và chất lượng thấp nên khó tiếp cận thị trường. Chănnuôi nông hộ phân bổ ngay trong khu dân cư thì rấtkhó kiểm soát dịch bệnh cho cả người lẫn gia súc, khó áp dụng các kỹ thuật an toàn sinh học để phòng tránh các bệnh truyền nhiễm (như lở mồm long móng, cúm gia cầm…)
Đặc điểm nổi bật của nông nghiệp Việt Nam là hệ thống sản xuất kết hợp, rõ ràng nhất là sự kết hợp mật thiết giữa chăn nuôi và trồng trọt, trong đó trâu bò được sử dụng làm sức cày kéo trong trồng trọt, cũng như nuôi lợn và trồng lúa hỗ trợ lẫn nhau. Chất thải chăn nuôi gây ra các loại ô nhiễm khác nhau, bao gồm cả ô nhiễm nước, đất và không khí. Bên cạnh đó chất thải chăn nuôi cũng gây ra những tác động đến kinh tế - xã hội như tác động lên sức khỏe con người, động vật, tác động đến kinh tế. Diện tích các bãi chăn thả tự nhiên ngày càng bị thu hẹp, ảnh hưởng đến nguồn cung cấp thức ăn cho hoạt động chăn nuôi bò, vấn đề xử lý chất thải trong chăn nuôi cũng như các mâu thuẫn trong quá trình chăn thả cũng gây bức xúc (không kiểm soát để bò vào ruộng, rẫy người khác, chất thải bò phát tán xung quanh,...) đang là những tác nhân ảnh hưởng đến sinh kế của các hộ dân.
Tuy nhiên, phân động vật được coi là nguồn dinhdưỡng quý giá cho đất với tỷ lệ phù hợp. Hàm lượng chất hữu cơ của đất phụ thuộc vào lượng chất hữu cơ được đưa vào đất bằng cách hấp thụ tự nhiên thông qua rễ, gốc cây, nốt sần của rễ và thoát ra rễ hoặc do con người tạo ra dưới dạng phân hữu cơ. Trong thời gian gần đây, phân hữu cơ có thể kết hợp hoặc thay thế cho phân bón hóa học như một nguồn dinh dưỡng trong trồng trọt do phân hóa học có chi phí tăng, mất phân dinh dưỡng nhanh chóng và tác động xấu đến môi trường.
Mặt khác, các trang trại tạo ra một lượng phân khổng lồ. Việc xử lý các chất thải này là một trong những vấn đề môi trường chính liên quan đến chăn nuôi thâm canh. Việc sử dụng phân làm phân bón hữu cơ có thể mang lại lợi ích cho nông nghiệp, bảo vệ môi trường và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên. Những nhà nghiên cứu đã chi ra rằng phân gia súc dùng làm mục đích tái tạo độ phì nhiêu của đất và đã được thực hiện ở nơi khác. Do đó hệ thống kép kín giữa trồng trọt và chăn nuôi là một thuận lợi đáng kể của hệ thống canh tác, cần được cải tiến với điều kiện mới để đạt được hiệuquả kinh tế và phát triển bền vững.
Nghiên cứu đã đề xuất được mô hình sản xuất canh tác tích hợp hướng tới không phát thải dựa trên nền tảng của hoạt động chăn nuôi. Mô hình áp dụng các giải pháp sinh thái, các giải pháp quay vòng, khép kín các dòng vật chất năng lượng cùng với tận dụng điều kiện sinh thái môi trường sẵn có của địa phương giúp duy trì sinh kế cho người dân. Mô hình áp dụng điển hình cho hộ Nguyễn Văn Hai tại ấp Trung An, xã Lê Trì, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Kết quả cho thấy 3,18 m3/ngày nước thải chăn nuôi và sinh hoạt được xử lý và tái sử dụng cho nông nghiệp, 39.065,31 tấn CO2 tđ/năm được thu gom dưới dạng khí sinh học phục vụ nấu ăn, mô hình giúp duy trì sinh kế hiện hữu, tạo ra một số sinh kế mới giúp hộ gia tăng thu nhập 45.200.000 đ/năm, đảm bảo các yêu cầu về bảo vệ môi trường, giảm sự lệ thuộc của sinh kế hiện hữu đối với các tác nhân bên ngoài như giá cả, thức ăn, nhân lực,... Đây có thể được xem là mô hình mẫu tốt nhất cho các hộ chăn nuôi bò; có thể khắc phục được những nhược điểm của những mô hình sinh kế trước đó tại địa phương; cả về khả năng áp dụng lâu dài cũng như phát triển quy mô nhiều hộ dân tăng khả năng liên kết giữa các hộ dân nhằm tạo sự hỗ trợ lẫn nhau trong trường hợp là một khu vực dân cư có cùng sinh kế chính là chăn nuôi bò.
|