Nghiên cứu do nhóm tác giả thuộc Khoa Công nghệ sinh học, Học viện Nông nghiệp Việt Nam thực hiện. Trong nghiên cứu này, 10 mẫu nấm khô vằn (KV1, KV6, KV8, KV10-KV16) đã được phân lập từ 20 mẫu bệnh khô vằn ở các tỉnh Hà Nội, Hải Dương, Thái Bình, Hà Nam và Hưng Yên. Mẫu nấm bệnh được đánh giá dựa vào các đặc điểm nuôi cấy, đặc điểm hình thái, phân tích PCR - RFLP và so sánh trình tự nucleotide rDNA - ITS.
|
Bệnh khô vằn lúa do nấm R. solani Kuhn gây ra là một trong những bệnh gây hại chính ở các vùng trồng lúa trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Cho đến nay chưa phát hiện được giống lúa có khả năng kháng bệnh khô vằn hiệu quả. Để phòng trừ bệnh cần kết hợp các biện pháp canh tác, vệ sinh đồng ruộng và sử dụng thuốc trừ bệnh.
Hiện nay, thuốc hoá học bảo vệ thực vật được sử dụng phổ biến vì có hiệu quả nhanh nhưng gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng tới sức khỏe con người. Gần đây nghiên cứu sử dụng các vi sinh vật để tạo ra các chế phấm sinh học đã góp phần quan trọng trong việc kiểm soát bệnh đồng thời không gây tác hại tới môi trường. Việc sàng lọc và phát hiện các chủng xạ khuẩn có khả năng đối kháng với nấm bệnh là bước quan trọng để phát triển chế phẩm sinh học. Xạ khuẩn là một nhóm vi sinh vật đất quan trọng có khả năng tổng hợp các hợp chất thứ cấp có hoạt tính sinh học kháng vi khuẩn, kháng nấm trong đó chủ yếu là các chất kháng sinh. Việc sử dụng chất kháng sinh trong bảo vệ thực vật ngày càng được áp dụng trên thế giới và đang dần thay thế cho việc sử dụng các loại chất hoá học độc hại. Nhiều loại chất kháng sinh chống bệnh ở thực vật đã được sử dụng phổ biến như kasugamycin từ xạ khuẩn Streptomyces kasugaensis, blastixidin từ xạ khuẩn Streptomyces griseochromogenes, validamicin từ Streptomyces hygroscopicus... các chất kháng sinh này có độc tính thấp và có khả năng chống bệnh đạo ôn, khô vằn ở lúa. Gần đây một số chủng Streptomyces sp. có khả năng sinh chất kháng sinh mới z-methylheptyl isonicotinate, chất này có khả năng kháng được nhiều loại nấm gây bệnh. Chính vì vậy xạ khuẩn đã được sử dụng để phát triển các chế phẩm đối kháng nấm gây bệnh cây trồng trên cơ sở mối cân bằng giữa các vi sinh vật và các sản phẩm tự nhiên của chúng để kìm hãm, ức chế vi sinh vật gây bệnh.

Để phát triển được các chế phẩm vi sinh đối khác với các nguồn vi khuẩn, nấm bệnh, việc sàng lọc và phát hiện các chủng xạ khuẩn có khả năng đối kháng mạnh là bước khởi đầu cần thiết. Hiện nay, do chưa có giống lúa kháng bệnh khô vằn hiệu quả và bền vững nên việc sàng lọc được các chủng xạ khuẩn có khả năng ức chế sự phát triển của nấm khô vằn sẽ làm cơ sở để phát triển chế phẩm phòng chống bệnh.
Xuất phát từ cơ sở trên, nghiên cứu này tập trung vào phân lập mẫu nấm bệnh khô vằn từ nhiều mẫu bệnh trên các giống lúa khác nhau đang trồng ở các tỉnh Hà Nội, Hải Dương, Thái Bình, Hà Nam, Hưng Yên trong vụ mùa 2014, đồng thời sàng lọc các chủng xạ khuẩn có khả năng đối kháng với các mẫu nấm bệnh khô vằn phân lập được. Nghiên cứu góp phần sàng lọc và phát hiện được các chủng xạ khuẩn mới làm cơ sở để phát triển chế phẩm vi sinh phòng trừ bệnh khô vằn.

Kết quả phân tích cho thấy các chủng phân lập đều thuộc loài Rhizoctonia solani (R. solani). Lây nhiễm nhân tạo các mẫu nấm phân lập trên các giống lúa Xi 23, Q5, Khang dân, BC15, Nếp TK90 và Nếp 87 cho thấy biểu hiện bệnh và vết bệnh đặc trưng của bệnh khô vằn chứng tỏ các mẫu nấm bệnh thuộc R. solani thuộc nhóm AG1-type 1 (AG1-IA). Trong số 10 chủng, chủng KV13 có độc tính mạnh nhất. Kết quả sàng lọc khả năng đối kháng của 80 mẫu xạ khuẩn đã phát hiện được 10 mẫu có khả năng đối kháng với mẫu KV13, trong đó mẫu L2.5 có hoạt tính đối kháng mạnh nhất. Dựa vào kết quả này, chủng L2.5 có thể được sử dụng để nghiên cứu nhằm phát triển chế phẩm kháng bệnh khô vằn hại lúa.
|