Nông - Lâm - Ngư nghiệp [ Đăng ngày (04/02/2021) ]
Nhận diện các trở ngại trong phát triển rừng gỗ lớn của nông hộ trên địa bàn huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế
Nghiên cứu do nhóm tác giả trường Đại học Nông Lâm Huế thực hiện. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm nhận diện các vấn đề trong phát triển rừng gỗ lớn (RGL) trên địa bàn huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Theo Kế hoạch số 204/KH-UBND ngày 28/12/2016 của Ủy ban Nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế về việc phát triển rừng trồng gỗ lớn trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, phấn đấu đến năm 2020 xây dựng 13.000 ha rừng trồng gỗ lớn, trong đó tỷ lệ rừng được cấp chứng chỉ FSC là 40% so với diện tích rừng gỗ lớn, tương đương 5.000 ha rừng trồng sản xuất sử dụng giống lâm nghiệp thân thiện với môi trường. Gỗ lớn trong đề tài này được hiểu là sản phẩm gỗ tròn khi khai thác, có đường kính từ 25 cm trở lên và chiều dài sản phẩm tối thiểu là 03 mét.

Trong năm 2016, được sự hỗ trợ kinh phí và kỹ thuật từ Dự án Mây Tre Keo bền vững (thuộc Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên - WWF), các nhóm hộ và doanh nghiệp tham gia chứng chỉ rừng FSC đã vượt qua kỳ đánh giá đầu tiên của Tổ chức Tư vấn Quốc tế (GFA), trong đó 14 nhóm hộ (241 hộ thành viên) tại 11 xã, phường thuộc 04 địa phương (huyện Phong Điền, Phú Lộc và thị xã Hương Trà, Hương Thủy) được cấp chứng chỉ FSC với diện tích là 950,96 ha, Công ty TNHH Nhà nước MTV Lâm nghiệp Tiền Phong được cấp chứng chỉ FSC với diện tích là 3.096,4 ha. Bằng nguồn vốn hỗ trợ từ Chương trình Khuyến lâm Quốc gia, Chi cục Kiểm lâm tỉnh Thừa Thiên Huế phối hợp với Tổng cục Lâm nghiệp tổ chức trồng mô hình rừng thâm canh gỗ lớn trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế với diện tích là 55,0 ha, gồm 34  hộ tham gia thuộc 03 xã khó khăn: Hồng Hạ, Hương Nguyên (huyện A Lưới), Hồng Tiến (thị xã Hương Trà); 02 xã miền núi: Bình Thành, Bình Điền (thị xã Hương Trà) và 01 xã đồng  bằng: Phường Hương Hồ.

Mô hình trồng rừng theo chứng chỉ rừng FSC tại Huế

Với 87,5% diện tích đất tự nhiên, rừng Nam Đông có nhiều loại gỗ quý như Lim, Gõ, Kiền, Kim giao và các động vật hoang dã, nhiều loại lâm sản ngoài gỗ có giá trị kinh tế cao. Tổng diện tích đất có rừng trong năm 2018 là 55.680,58 ha chiếm 85,96% diện tích tự nhiên, trong đó rừng tự nhiên có 48.770,34 ha chiếm 87,6% diện tích đất có rừng, chủ yếu thuộc đối tượng rừng đặc dụng và rừng phòng hộ. Rừng trồng có 6.910,24 ha chiếm 12,4% diện tích đất có rừng và chủ yếu thuộc đối tượng rừng sản xuất, đây là nguồn cung cấp gỗ nguyên liệu chủ yếu cho công nghiệp chế biến gỗ rừng trồng, hàng mộc dân dụng.

Trong giai đoạn hiện nay, rừng trồng sản xuất, đặc biệt là sản xuất gỗ lớn có vị trí rất quan trọng trong chiến lược phát triển lâm nghiệp bền vững tại Việt Nam. Quyết định 38/2016/QĐ-TTg của Chính phủ nhấn mạnh việc hỗ trợ kinh phí cho trồng rừng gỗ lớn và các hoạt động hỗ trợ liên quan, kể cả hỗ trợ 70% chi phí cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững. Ngoài ra, các tổ chức Phi Chính phủ, các nguồn vốn viện trợ bên ngoài đầu tư cho phát triển rừng luôn chú trọng vào việc trồng rừng gỗ lớn có nguồn gốc hợp pháp, kinh doanh có trách nhiệm. Nhưng thay đổi được tư duy và phương thức sản xuất của người dân trồng rừng thực sự là một vấn đề khó cho ngành Lâm nghiệp. Lý do là hiện nay cộng đồng trồng rừng ở Việt Nam đã quá phụ thuộc vào thị trường gỗ dăm giấy từ Trung Quốc, một thị trường được đánh giá là rủi ro và khó bền vững. Chính vì vậy, muốn có thị trường bền vững thì chính cộng đồng trồng rừng cần thay đổi tư duy kinh doanh từ trồng rừng nguyên liệu cho mục đích sản xuất dăm giấy sang trồng rừng gỗ lớn.

Với các lý do trên, đề tài này tập trung tìm hiểu hiện trạng và đặc điểm phát triển sản xuất rừng trồng và nhận diện các yếu tố cản trở làm cơ sở để đề xuất giải pháp hỗ trợ sản xuất rừng gỗ lớn của nông hộ.

Dữ liệu sơ cấp được thu thập từ 90 hộ trồng rừng ở 03 xã đại diện, phỏng vấn người am hiểu, thảo luận 03 nhóm nông dân. Dữ liệu thứ cấp được tổng hợp từ báo cáo của Chi cục Kiểm lâm tỉnh Thừa Thiên Huế, UBND các cấp,...

Kết quả cho thấy, việc phát triển rừng gỗ lớn ở Nam Đông còn gặp phải các trở ngại sau: (i) Diện tích canh tác manh mún, độ dốc lớn, tầng đất mỏng; (ii) Nguồn gốc đất đa dạng gây khó khăn cho công tác quản lý; (iii) Nguồn giống và kỹ thuật canh tác không đồng nhất; (iv) Chi phí đầu tư thấp, nhân lực và cơ sở hạ tầng phục vụ nghề rừng còn hạn chế; (v) Bị động trong tìm đầu ra sản phẩm rừng trồng; (vi) Tâm lý sợ rủi ro của người dân khi sản xuất rừng gỗ lớn; (vii) Vai trò của hiệp hội chủ rừng còn mờ nhạt. Từ đó, định hướng 03 nhóm giải pháp để giải quyết các vấn đề trên: Quy hoạch vùng sản xuất rừng gỗ lớn của nông hộ; Xây dựng kỹ thuật và nâng cao năng lực kỹ thuật sản xuất rừng gỗ lớn; Chính sách hỗ trợ hiệp hội chủ rừng và sản xuất rừng gỗ lớn của nông hộ.

Để thúc đẩy việc phát triển rừng gỗ lớn trên địa bàn, địa phương cần quy hoạch vùng sản xuất rừng gỗ lớn cụ thể, thực hiện dồn điền đổi thửa; lựa chọn chủng loại và nguồn giống phù hợp với điều kiện lập địa. Cần thống nhất quy trình kỹ thuật và chú trọng đầu tư phân bón, chăm sóc đặc biệt là những năm đầu chu kỳ sản xuất. Quan tâm đến chính sách tín dụng cho các hộ trồng rừng; khuyến khích, thu hút đầu tư trồng rừng sản xuất kinh doanh gỗ lớn kết hợp với chế biến gỗ; nâng cao vai trò và hiệu quả hoạt động của các hiệp hội chủ rừng và các hợp tác xã phát triển rừng bền vững.

lttsuong
Theo Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp - Tập 4(3)-2020
In bài viết  
Bookmark
Ý kiến của bạn

Video  
 

Video

 



© Copyright 2020 Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ - Sở Khoa học & Công nghệ TP. Cần Thơ
Địa chỉ: 118/3 Trần Phú - Phường Cái Khế - Quận Ninh Kiều - thành phố Cần Thơ
Giấy phép số: 05/ GP-TTĐT, do Sở Thông tin và Truyền Thông thành phố Cần Thơ cấp ngày 23/5/2017
Trưởng Ban biên tập: Ông Vũ Minh Hải - Giám Đốc Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ - Sở Khoa học & Công nghệ TP. Cần Thơ
Ghi rõ nguồn www.trithuckhoahoc.vn khi bạn sử dụng lại thông tin từ website này
-->