Theo Rawles et al. (1997), kháng sinh kích thích sinh trưởng và tăng hiệu quả sử dụng thức ăn bằng cách tiêu diệt hệ vi sinh đường ruột, từ đó tăng khả năng tận dụng các axít amin của vật chủ. Trong các nhóm kháng sinh, colistin là thuốc kháng sinh nhóm polymyxin thường được dùng để điều trị các nhóm vi khuẩn gram âm.
Ảnh minh họa
Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay, tình trạng đề kháng kháng sinh và tồn dư kháng sinh ngày càng tăng, do đó việc tìm những nguồn nguyên liệu mới dần thay thế một phần kháng sinh trong chăn nuôi là điều rất cần thiết. Vì thế, bổ sung các chất phụ gia vào thức ăn thay thế kháng sinh nhằm cải thiện năng suất chăn nuôi là vấn đề được các nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm. Mannan oligosaccharides (MOS) là một trong những thành phần phổ biến trong tế bào nấm men Saccharomyces cerevisiae được biết đến như một chất bổ sung tự nhiên an toàn cho gà thịt được công bố vào 1993. Sản phẩm sinh học thương mại của MOS đã cho thấy khả năng cản trở hoạt động của các vi khuẩn gây bệnh đường ruột, tăng các đáp ứng miễn dịch và cải thiện lớp niêm mạc ruột ở gà thịt (Spring et al., 2000; Iji et al., 2001). Ngoài ra, việc bổ sung MOS trong khẩu phần cũng làm giảm tỷ lệ chết ở các đàn gia súc (Hooge, 2004). Mannan oligosaccharides đã được nghiên cứu và sử dụng phổ biến trên thế giới với nhiều mục đích khác nhau. Tuy nhiên, việc nghiên cứu sử dụng MOS để thay thế một phần hoặc hoàn toàn kháng sinh trong thức ăn cho gà thịt ở Việt Nam chưa được thực hiện nhiều. Do đó, mục tiêu của nghiên cứu này nhằm đánh giá ảnh hưởng của bổ sung mannan oligosaccharides (MOS) và colistin trong thức ăn đến khả năng sinh trưởng và đáp ứng miễn dịch ở gà Lương Phượng nuôi thịt.
Nghiên cứu do Nhóm tác giả: Trần Phạm Tiến Thịnh* , Nguyễn Thị Ngọc Dung, Nguyễn Thị Mỹ Nhân và Chế Minh Tùng Khoa Chăn nuôi Thú y, Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh
Bố trí thí nghiệm: Thí nghiệm được tiến hành trên 288 gà Lương Phượng mái một ngày tuổi, đồng đều về khối lượng đươc bố trí ngẫu nhiên vào ba nghiệm thức theo kiểu hoàn toàn ngẫu nhiên. Ba nghiệm thức thức ăn bao gồm: (1) Thức ăn cơ bản (TACB) không có MOS và colistin (Đối chứng), (2) TACB + colistin (hàm lượng 20 ppm trong giai đoạn từ 1 đến 21 ngày tuổi) và (3) TACB + MOS (liều 400 g/tấn thức ăn trong cả ba giai đoạn). Mỗi nghiệm thức có 8 ô chuồng, mỗi ô chuồng có 12 con gà. Tổng số có 24 ô chuồng.
Chuồng nuôi và chăm sóc Gà được nuôi ở môi trường chuồng hở trong cùng một dãy chuồng, thuộc dạng nền xi măng và mỗi ô chuồng có diện tính 1,5 x 1,0 m. Mỗi chuồng nuôi 12 con gà và được xem là một lần lặp lại. Mái chuồng bằng tôn, cách nền chuồng 3 m, xung quanh chuồng là lưới kẽm có bạt che để tránh mưa tạt gió lùa. Nền chuồng bằng xi măng và có trải một lớp trấu dày khoảng 10 cm. Trấu và phân được hốt dọn hai lần trong suốt giai đoạn thí nghiệm. Chuồng nuôi được thông thoáng tự nhiên và có phun sương trên mái chuồng khi nhiệt độ tăng cao vào buổi trưa. Gà được úm trong 2 tuần đầu, nhiệt độ úm tuần thứ nhất là 32oC và tuần thứ hai là 30oC. Ngoài ra, chất độn chuồng được phơi khô và phun sát trùng trước khi cho vào chuồng.
Thức ăn thí nghiệm: Thức ăn cơ bản là thức ăn được cung cấp bởi công ty Bình Minh đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của gà thịt thương phẩm trong từng giai đoạn. Thức ăn cho gà được chia thành ba giai đoạn: 1 - 14, 15 - 35 và 36 - 63 ngày tuổi. Thành phần dinh dưỡng của thức ăn được trình bày ở Bảng 1. Đối với nghiệm thức sử dụng kháng sinh, kháng sinh colistin được bổ sung vào thức ăn ở liều 20 ppm từ 1 đến 21 ngày tuổi theo khuyến cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Ở nghiệm thức sử dụng MOS, sản phẩm MOS được bổ sung trong thức ăn ở liều 400 g/tấn theo khuyến cáo của nhà sản xuất (Alltech, Việt Nam). Gà được cho ăn và uống nước tự do. Vào ban đêm, bóng đèn được mở để cung cấp ánh sáng cho gà lấy thức ăn
Phương pháp xử lý số liệu: Các số liệu được thu thập và xử lý bằng phần mềm thống kê Minitab 16.1 (Minitab Inc., Stage College, Pennsylvania, PA, USA). Ô chuồng hoặc cá thể gà là đơn vị thí nghiệm. Các chỉ tiêu KLBQ, TKLHN, TTTAHN, HSCHTA và HGKT huyết thanh được phân tích bằng trắc nghiệm F và sự khác biệt giữa các nghiệm thức được so sánh bằng trắc nghiệm Tukey. Tỷ lệ nuôi sống và độ đồng đều về khối lượng của gà giữa các nghiệm thức được phân tích bằng trắc nghiệm Chi bình phương. Khác biệt giữa các nghiệm thức được xem là có ý nghĩa khi P < 0,05.
KẾT LUẬN Cho gà ăn thức ăn được bổ sung MOS đã cho năng suất tương đương so với gà ăn thức ăn có bổ sung 20 ppm kháng sinh colistin. Ngoài ra, MOS có thể là một chất phụ gia tiềm năng giúp tăng cường khả năng bảo vệ đàn gà trong những tuần đầu vì nó đã làm tăng HGKT chống vi rút gây bệnh Gumboro sau 2 tuần chủng vắc-xin Gumboro. |