Đồng bằng sông Cửu Long gồm 13 tỉnh và thành phố, tổng dân số là 18 triệu người, chiếm khoảng gần 20% dân số cả nước, trong đó có trên 80% dân số sống ở vùng nông thôn. Hiện nay tỷ lệ dân cư nông thôn được sử dụng nước đạt tiêu chuẩn còn ở mức thấp, nhiều nước dân cư người dân gặp khó khăn về nước sạch, phải mua nước từ xa về với giá cao. Do đó, đòi hỏi phải có đánh giá tổng thể về hiện trạng cấp nước sinh hoạt nông thôn, từ đó đề xuất các giải pháp phát triển cấp nước nhằm đáp ứng các mục tiêu về cấp nước nông thôn cảu Chiến lược cáp nước và vệ sinh môi trường nông thôn đến năm 2020.
Bên cạnh đó, với tình hình biến đổi khí hậu, tính không chắc chắn về nguồn cung cấp nước mặt do xây dựng các đạp thủy điện thượng nguông trên dòng chính sông Mê Kông và trữ lượng nước dưới đất ngày càng suy giảm do khai thác quá mức, việc tận dụng trữ lượng nước từ các hồ chứa nước quy mô vừa và nhỏ là hết sức cần thiết (Trần Văn Tý và các cộng sự, 2018). Tuy nhiên, việc đánh giá trữ lượng và chất lượng nước tại các hồ chứa nước hiện nay (8 hồ) và tiềm năng (10 hồ) tại các hyện vùng núi An Giang chưa được quan tâm đúng mức (UBND tỉnh An Giang, 2010 và 2017). Đây sẽ là nguồn cung cấp nước cho sinh hoạt, công nghiệp, nông nghiệp,.. cần quan tâm trong tương lại, nhằm giảm áp lực lên tài nguyên nước dưới đất trước tình hình chất lượng nước sông ngày càng bị ô nhiễm (Lâm Hoàng Oanh và các cộng sự, 2017).
Đồng thời, tình hình cạn kiệt cũng ảnh hưởng lớn đến đời sống và sản xuất của người dân, như: thiếu nước sản xuất, sinh hoạt vào mùa khô, đặc biệt là ở các huyện biên giới, miền núi nơi có nhiều đồng bào dân tộc Khmer sinh sống (Tri Tôn và Tịnh Biên). Đặc thù ở vùng này là vào mùa mưa, lượng lớn dòng chảy từ mưa ở các sườn nứi vùng Bảy Núi) đổ xuống đồng bằng rồi ra biển Tây. Do đó, phương án xây dựng hồ chứa nước để cung cấp nước vào mùa kiệt và trữ nước vào mùa mưa là rất cần thiết.
Nghiên cứu này nhằm nục tiêu đánh giá cân bằng nước hồ chứa Ô Tà Sóc phục vụ các nhu cầu dùng nước thuộc vùng Bảy Núi, tỉnh An Giang, từ đó đề xuất các phương án vận hành hồ hiện tại và trong tương lai. Để đạt được mục tiêu trên, trước tiên các nhu cầu sử dụng nước cho các thành phần dùng nước và trữ lượng nước hồ chứa được tính toán và vận hành điều tiết hồ chứa theo các phương án dùng nước dưới ảnh hưởng của các kịch bản biến đổi khí hậu được tính toán và đánh giá.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, theo các kịch bản biến đổi khí hậu, lượng mưa có xu hướng giảm trong các tháng mùa khô và tăng trong các tháng mùa mưa. Nhìn chung nhiệt độ tăng ở cả mùa mưa và mùa khô theo các kịch bản biến đổi khí hậu. Kết quả tính toán vận hành hồ chứa cho thấy dung tích hồ chứa hiện tại đảm bảo cấp nước sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp. Trong điều kiện biến đổi khí hậu, việc điều tiết hồ chứa phục vụ cho các ngành dùng nước giai đoạn đến năm 2030 vẫn được đảm bảo. Tuy nhiên, đến giai đoạn đến năm 2050, kết quả cân bằng nước theo từng phương án vận hành có sự thay đổi theo các kịch bản biến đổi khí hậu (thừa hoặc thiếu nước). Kết quả nghiên cứu là cơ sở cho bước đầu nghiên cứu vận hành hồ chứa cho vùng Bảy Núi, tỉnh An Giang. |