Nông - Lâm - Ngư nghiệp [ Đăng ngày (24/04/2020) ]
Đánh giá vai trò của rong biển và thực vật thủy sinh trong ao nuôi tôm quảng canh cải tiến ở huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau
Nghiên cứu do các tác giả Nguyễn Thị Ngọc Anh, Lam Mỹ Lan, Trần Ngọc Hải – Trường Đại học Cần Thơ, tác giả Nguyễn Hoàng Vinh – Trung tâm Khuyến nông, Khuyến ngư Bạc Liêu thực hiện.

Đồng bằng sông Cửu Long có nhiều thuận lợi về điều kiện tự nhiên và tiềm năng và diện tích nuôi trồng thủy sản, là vùng nuôi tôm nước gạo trọng điểm của cả nước. Trong đó nuôi tôm quảng canh cải tiến chiếm phần lớn do chi phí thấp, kỹ thuật đơn giản và phù hợp với điều kiện canh tác của nông hộ, được xem là mô hình nuôi bền vững và thân thiện với môi trường và được nuôi phổ biến ở các tỉnh ven biển Đồng bằng sông Cửu Long như Cà Mau, Bạc Liêu, Bến Tre (Trịnh Thị Long và Dương Công Chinh, 2013; Nguyễn Thanh Phương và ctv., 2014). Theo Sở Nông Nghiệp Và Phát triển Nông thôn tỉnh Cà Mau, diện tích nuôi tôm quảng canh cải tiến liên tục tăng từ năm 2010 đến năm 2018 có trên 115,2 nghìn ha, đặc biệt là huyện Đầm Dơi có hơn 62 nghìn diện tích ha nuôi trồng thủy sản, với nhiều mô hình nuôi khác nhau như tôm - rừng, tôm công nghiệp, quảng canh, quảng canh cải tiến, trong đó mô hình nuôi tôm sú quảng canh cải tiến với gì diện tích 31.550 ha, chiếm khoảng 50% diện tích nuôi toàn tỉnh.

Rong biển và thực vật thủy sinh có vai trò rất quan trọng trong hệ sinh thái nước lợ, mặn. Chúng là nơi cư trú, vườn ươm nuôi ấu trùng, sinh trưởng và sinh sản của rất nhiều loài thủy sản, có khả năng hấp thụ mạnh các chất dinh dưỡng trong môi trường giúp điều hòa và cân bằng hệ sinh thái (Đinh Thị Phương Anh và Hoàng Thị Ngọc Hiếu, 2010; Jaikumar, et al., 2011; Hurd, et al., 2014; Vaheeda và Simon 2014; Oꞌharre, et al., 2018). Ở đồng bằng sông Cửu Long, rong biển và thực vật thủy sinh được tìm thấy quanh năm trong các thủy vực nước lợ và ao nuôi tôm quảng canh cải tiến với sinh lượng lớn (ITB-VietNam 2011, Nguyễn Thị Ngọc Anh, 2015). Tuy nhiên, vai trò và tác động của rong biển nhà thực vật thủy sinh trong ao nuôi tôm quảng canh cải tiến khác nhau theo lời và mức độ phát triển của chúng (ITB-VietNam 2011, Jaikumar, et al., 2011, Nguyễn Thị Ngọc Anh 2017). Vì thế mục tiêu của nghiên cứu là nhằm tìm hiểu vai trò của các loại rong biển và thực vật thủy sinh hiện diện tự nhiên trong ao nuôi tôm quảng canh cải tiến và ảnh hưởng của chúng đến hiệu quả tài chính của mô hình nuôi ở huyện Đầm Dơ,i tỉnh Cà Mau. Kết quả có thể cung cấp thông tin hữu ích cho việc quản lý công biển và thực vật thủy sinh trong ao nuôi thích hợp góp phần phát triển mô hình nuôi tôm quảng canh cải tiến bền vững ở đồng bằng sông Cửu Long.

Khảo sát được tiến hành bằng cách phỏng vấn trực tiếp 90 hộ nuôi tôm sú quảng canh cải tiến (QCCT) ở huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau nhằm đánh giá vai trò và tác động của rong biển và thực vật thủy sinh (TVTS) đến năng suất và lợi nhuận của mô hình. Các hộ nuôi tôm QCCT được chọn phỏng vấn chia thành 3 nhóm về tình trạng rong biển và TVTS xuất hiện tự nhiên trong ao. Nhóm 1: ao nuôi tôm QCCT có sự hiện diện tự nhiên của nhiều loại rong biển và TVTS nhưng không có rong câu (rong hỗn hợp), nhóm 2: ao nuôi tôm QCCT có rong câu xuất hiện tự nhiên ưu thế hơn các loài rong biển và TVTS khác và nhóm 3: ao nuôi tôm QCCT không có sự hiện diện của rong biển và TVTS nhưng có sự hiện diện của cây đước hoặc cây mắm chiếm 20-30% diện tích ao.

Kết quả khảo sát từ ý kiến nông hộ cho biết có 4 loại rong biển (rong câu Gracilaria, rong xanh Cladophoraceae, rong bún Enteromorpha và rong nhớt Spirogyra) và 3 loại TVTS (rong đá Najas, rong đuôi chồn Ceratophyllum và cỏ năn Eleocharis) thường xuất hiện tự nhiên trong ao nuôi tôm QCCT, trong đó rong câu được ưa thích duy trì trong ao nuôi nhiều nhất (35% số hộ), kế đến là rong đá (23,3% số hộ), các loại rong khác có tỉ lệ thấp hơn. Đa số ý kiến nông hộ (81,7-91,7%) cho rằng rong biển và TVTS có vai trò quan trọng trong ao nuôi tôm QCCT như cải thiện chất lượng nước, làm thức ăn trực tiếp, nơi trú ẩn cho tôm, cua và tạo nguồn thức ăn tự nhiên. Bên cạnh đó, khi phát triển quá mức chúng cũng gây ra một số trở ngại nhất định như làm nước ao rất trong, gây thối nước khi tàn lụi, cản trở hoạt động sống của tôm, cua và làm giảm năng suất tôm nuôi. Nhóm 2 đạt năng suất tôm sú và lợi nhuận cao nhất (336,8±92,7 kg/ha/năm và 70,2±26,4 triệu đồng/ha/năm), kế đến là nhóm 1 (282,1±122,2 kg/ha/năm và 57,8±29,0 triệu đồng/ha/năm) và hai nhóm này cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nhóm 3 (107,7±42 kg/ha/năm và 39,0±17,1 triệu đồng/ha/năm). Ngoài ra, ao nuôi tôm QCCT duy trì độ phủ rong biển và TVTS ≤50% thu được năng suất tôm sú và lợi nhuận cao hơn nhiều so với ao có độ phủ >50% và ao nuôi tôm QCCT không có rong biển và TVTS.

Vân Anh
Theo Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn - Kỳ 21- Tháng 11/2019
In bài viết  
Bookmark
Ý kiến của bạn

Video  
 

Video

 



© Copyright 2020 Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ - Sở Khoa học & Công nghệ TP. Cần Thơ
Địa chỉ: 118/3 Trần Phú - Phường Cái Khế - Quận Ninh Kiều - thành phố Cần Thơ
Giấy phép số: 05/ GP-TTĐT, do Sở Thông tin và Truyền Thông thành phố Cần Thơ cấp ngày 23/5/2017
Trưởng Ban biên tập: Ông Vũ Minh Hải - Giám Đốc Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ - Sở Khoa học & Công nghệ TP. Cần Thơ
Ghi rõ nguồn www.trithuckhoahoc.vn khi bạn sử dụng lại thông tin từ website này
-->